Linguistic Semantics: An Introduction
Chương 8: Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung
• Dẫn nhập •
Phát ngôn • Hành động tạo lời • Lực ngôn trung • Nhận định, hỏi và cầu khiến
8.0. Dẫn nhập
Đến đây, chúng ta chưa thật sự khai thác sự khác biệt về
mặt thuật ngữ, đã được nêu ra trong chương 1, giữa ‘câu’ và ‘phát ngôn’. Chúng
ta cũng chưa làm rõ sự khác biệt có liên quan giữa cái mà Saussure gọi là ‘ngôn
ngữ’ và ‘lời nói’, còn Chomsky thì gọi là ‘ngữ năng’ và ‘ngữ thi’, vốn là những
khái niệm, như chúng ta đã thấy trong chương 1, cần được trình bày lại, với tư
cách là những sự lưỡng phân không tương đương với nhau trong khuôn khổ tam phân
hệ thống-quá trình-thành phẩm, nếu như chúng ta muốn tránh những ngộ nhận được
gán cho sự phân biệt các thuật ngữ này trong hầu hết các sách giáo khoa.
Phần lớn những nghiên cứu trong nghĩa học hình thức
(trong chừng mực nó được áp dụng để phân tích ngôn ngữ tự nhiên) đã dựa trên
quan điểm cho rằng ngôn ngữ là tập hợp các câu, và các câu được dùng chủ yếu
là, nếu không nói chỉ duy nhất, nhằm vào mục đích miêu tả. Do đó, nghĩa học
hình thức thường không quan tâm đến sự khác biệt giữa ngữ nghĩa của câu và nội
dung mệnh đề (tức nội dung miêu tả). Đây rõ ràng là một quan điểm rất hạn hẹp về
bản chất ngôn ngữ (như chúng ta đã thấy ở chương 6) và về ngữ nghĩa của câu.
Quan điểm này đã bị chỉ trích rất nhiều.
Một trong những người chỉ trích có ảnh hưởng nhất trong
những năm gần đây là nhà triết học J.L Austin (1911–60) ở Đại học Oxford, người
có những tư trưởng được tranh luận rất nhiều, không chỉ trong giới triết học mà
còn cả trong giới ngôn ngữ học (và những đại biểu của nhiều ngành khoa học
khác). Trong chương này, chúng ta sẽ sử dụng cái được gọi là lí thuyết hành động
ngôn từ của Austin như là xuất phát điểm để phân tích nghĩa của phát ngôn trong
các chương 9 và 10 tiếp theo.
8.1. Phát ngôn
Như đã chỉ ra ở chương 1, thuật ngữ ‘phát ngôn’ mơ hồ giữa
nghĩa quá trình và nghĩa ngôn phẩm (mục 1.6). (Ở đây từ ‘quá trình’ được dùng với
nghĩa rộng hơn ‘hành động’ hay ‘hoạt động’: hành động là quá trình có chủ thể
kiểm soát; còn hành vi (act) là đơn vị của hành động hay hoạt động). Thuật ngữ
‘phát ngôn’ có thể được dùng để chỉ hoặc chính quá trình (hoặc hoạt động) phát
ngôn ra câu nói hoặc chính sản phẩm của quá trình (hoặc hoạt động) ấy. Phát
ngôn, theo cách hiểu thứ nhất, hiện nay được dùng để chỉ các hành động ngôn từ;
còn theo cách hiểu thứ hai thì có thể dùng để chỉ các phát-ngôn-thành-phẩm
(inscriptions), theo một nghĩa đặc biệt của thuật ngữ này. (Thuật ngữ
phát-ngôn-thành-phẩm, được nêu ra ở chương 1, không được giới ngôn ngữ học dùng
một cách rộng rãi. Nó không nên được xem là phù hợp với ngôn ngữ viết hơn so với
ngôn ngữ nói). Trong chương này, một trong những mục đích chính của tôi là làm
rõ mối quan hệ giữa các hành động ngôn từ với các phát-ngôn-thành-phẩm và đồng
thời với nó là làm rõ hơn sự khác biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn.
Trong chừng mực có thể được, tôi sẽ thao tác với các thuật ngữ và khái niệm được
lấy ra từ tác phẩm của J.L Austin, hiện đang được sử dụng rộng rãi trong ngôn
ngữ học và các khoa học có liên quan. Nhưng tôi thấy cần bổ sung một hoặc hai sự
phân biệt của riêng tôi, nhằm làm chính xác hơn những gì mà Austin và các môn đệ
đã làm về mối quan hệ phức tạp giữa các hành động ngôn từ và câu. Tôi cũng sẽ
nêu thảo luận những điểm chưa được chú ý đúng mức trong phạm vi có thể gọi là
truyền thống Anh-Mĩ, nếu so với việc xử lí chúng trong truyền thống Pháp điển
hình, vốn bắt nguồn từ nghiên cứu của Emile Benveniste (1966, 1974).
Thuật ngữ ‘hành động ngôn từ’ có thể gây hiểu nhầm. Trước
hết, nó dễ bị coi là đồng nghĩa với ‘hành động phát ngôn ra câu nói’ hơn là để
biểu thị, như nó đã biểu thị (theo cái nghĩa mà nó được các nhà ngôn ngữ học sử
dụng), một bộ phận cụ thể nào đó của sản phẩm nói năng. Thứ hai, nó quá nhấn mạnh
vào cái bộ phận của sản phẩm nói năng ở khía cạnh là phương tiện ghi lại âm
thanh. Tuy nhiên, bởi thuật ngữ ‘hành động ngôn từ’ hiện nay được dùng quá phổ
biến, trong ngôn ngữ học và trong triết học, theo nghĩa chuyên môn mà Austin và
cụ thể hơn, là J.R Searle đã cấp cho nó, tôi sẽ không tìm cách thay thế nó bằng
một thuật ngữ khác thích hợp hơn. Có điều, cần phải nhấn mạnh rằng: (i) thuật
ngữ ‘hành động ngôn từ’ được dùng nhất quán theo một nghĩa rất chuyên môn hoá;
và (ii) thuật ngữ này, một mặt, giống như thuật ngữ ‘phát ngôn’, và mặt khác,
giống như các thuật ngữ ‘phát-ngôn-thành-phẩm’ hay ‘ngôn bản’, được dùng để chỉ
sản phẩm của ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết. Tất cả những gì được nêu trong chương
này (và xuyên suốt cuốn sách) đều được định hướng nhất quán với những gì đã được
nói ở chương 1, một mặt là về ngữ năng và ngữ thi, và mặt khác, là về hệ thống
ngôn ngữ, về việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ, về sản phẩm của việc sử dụng hệ thống
ngôn ngữ đó và sẽ tỏ ra trung tính đối với một số khác biệt hiện được coi là đặc
trưng để phân biệt trường phái ngôn ngữ học này với trường phái ngôn ngữ học
khác. Chẳng hạn, nó trung tính giữa cách tiếp cận tạo sinh luận và phi tạo sinh
luận đối với việc phân tích ngôn ngữ và đối với ngôn ngữ, giữa tri nhận luận
(cognitivism) và phản tri nhận luận (anti-cognitivism), giữa chức năng luận và
phản chức năng luận, giữa hình thức luận và phản hình thức luận. Thiết thực hơn,
sự trình bày của tôi về những gì được gọi là lí thuyết hành động ngôn từ là nhằm
đưa ra một cơ sở triết học cần yếu hơn so với những gì thường được nêu trong
các sách giáo khoa ngôn ngữ học.
Bản thân Austin chưa hề trình bày lí thuyết được phát triển
đầy đủ về các hành động ngôn từ. Di cảo cuối cùng là tập thuyết trình William
James ông đọc ở Harvard vào năm 1955 và sau khi ông chết, được công bố với tên
gọi How to do things with words (Nói là hành động) (1962). Trước đó, ở Đại học
Oxford, trong một số năm, ông cũng đã thuyết trình chính đề tài đó và vào năm
1940, đã sớm có những bài viết có liên quan, nhưng về tập bài giảng William
James của mình, ông đã không để lại bản thảo được sửa chữa đầy đủ và có thể
công bố. Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi chẳng hề có phiên bản được nhất trí
và xác định nào về lí thuyết của ông. Sự thật, người ta không rõ ngay cả việc
Austin có cố gắng xây dựng một lí thuyết về các hành động ngôn từ theo cách hiểu
thuật ngữ ‘lí thuyết’ mà những người người theo tư tưởng của ông đã hiểu hay
không. Ông là người thuộc về trường phái được gọi là trường phái triết học ngôn
ngữ đời thường, mà thành viên của nó là những người có xu hướng hoài nghi chủ
nghĩa hình thức và hoài nghi việc có thể vạch ra những phân biệt rạch ròi.
Mục tiêu chính của Austin, ít nhất ở buổi ban đầu, là xem
xét lại điều mà ông nhìn nhận như là nguỵ thuyết miêu tả: quan điểm cho rằng chức
năng của ngôn ngữ được quan tâm duy nhất về mặt triết học là chức năng xây dựng
những phán đoán đúng hay sai. Cụ thể hơn, ông tấn công vào thuyết thẩm định
chân thực, có liên quan đến thực chứng luận lô gích, tức cái thuyết cho rằng
các câu chỉ có nghĩa khi chúng biểu thị những mệnh đề có thể kiểm tra được tính
đúng hay sai. Chúng ta đã xem xét thẩm định luận (verificationism) khi nói về
khái niệm khái niệm điều kiện chân thực (xem mục 5.4). Như chúng ta đã thấy,
khi Austin đầu tiên quan tâm đến vấn đề này, những người theo thẩm định luận đã
phải đối mặt với sự chỉ trích rằng tiêu chí về tính có nghĩa của họ đã loại trừ,
không phải chỉ những cái được gọi là giả phán đoán của thần học hay siêu hình học,
mà còn cả những phán đoán thuộc đạo đức học và mĩ học. Một sự đáp trả lại đối với
chỉ trích này, nó sẽ được nhắc lại, là thừa nhận những câu như:
‘Tục
ăn thịt người là sai lầm’
hoặc
‘Monet
là hoạ sĩ tài năng hơn Manet’
không thể được dùng để biểu thị các phán đoán mang tính
miêu tả, mà chỉ có thể được dùng để biểu cảm, tức biểu thị những cảm nhận của
con người (xem mục 5.5).
Hoặc có thể cho rằng, mặc dù những câu như vậy có thể được
dùng để biểu thị các phán đoán đúng hoặc sai thì cái mà người nói biểu thị, khi
nói những câu đó, là những thái độ của riêng họ hoặc của ai đó hơn là hiện thực
khách quan. Trong các bài viết tương đối sớm của mình, Austin đã phê phán cách
hiểu thứ hai này. Sau đó, ông đã chỉ ra rằng trong số những phát ngôn thường
ngày của chúng ta, số phát ngôn giả phán đoán là nhiều hơn so với số được thừa
nhận bởi những người theo thẩm định luận hoặc những người chống đối họ. Ví dụ,
theo Austin, nếu ta phát ngôn câu:
‘Tôi hứa
trả anh/chị 5 Bảng’
với mục đích là hứa (và báo cho người nghe biết là ta
đang tạo ra một lời hứa), thì ta không phải là đang nói điều gì đó, có thể đúng
hoặc sai, do ta nhận thức được mà chính là ta cam kết thực hiện một hành động cụ
thể.
Đây, tóm lại, là bối cảnh triết học trong đó Austin lần đầu
tiên nêu ra sự phân biệt mà nay rất nổi tiếng giữa phát ngôn tường thuật
(constative) và phát ngôn ngôn hành (performative). Theo định nghĩa, phát ngôn
tường thuật là phát ngôn nêu nhận định. (Austin thích dùng ‘tường thuật’ hơn là
‘miêu tả’, bởi vì ông cho rằng không phải tất cả những nhận định đúng hoặc sai
đều là các phát ngôn miêu tả. Để giản tiện cho việc trình bày ở đây, hai thuật
ngữ này sẽ được xem là tương đương). Phát ngôn ngôn hành, trái lại, là những
phát ngôn mà khi nói ra chúng, người nói hay người viết chính là đã làm một điều
gì đấy hơn là nói một điều gì đấy.
Sự phân biệt giữa nói và làm này (được phản ánh trong
tiêu đề bài giảng của Austin ở Oxford là ‘Ngôn từ và hành động’) cuối cùng đã bị
từ bỏ. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa phát ngôn tường thuật và phát ngôn phi tường
thuật, như trên đây, thì vẫn được giữ lại. Điều đơn giản là, trong phiên bản muộn
nhất mà chúng ta có về tác phẩm của Austin, các phát ngôn tường thuật chỉ được
xem như là một loại phát ngôn ngôn hành. Tương tự, nói (saying), trong cái
nghĩa nêu nhận định, hay xác nhận của động từ ‘nói’, cái nghĩa mà theo đó ta
nói một điều gì đó đúng hay sai, sẽ được xem như là một kiểu hành động đặc biệt.
Và như chúng ta sẽ thấy, Austin đã xem xét một cách khá chi tiết vấn đề nói và
làm. Thực tế, đây là những gì mà lí thuyết hành động ngôn từ của Austin, trong
chừng mực nó là một lí thuyết, quan tâm xem xét. Đó là một lí thuyết về dụng học
(theo cái nghĩa từ nguyên của thuật ngữ ‘ngữ dụng’, là sự nghiên cứu về hành động).
Hơn thế nữa (mặc dù Austin không phát triển những vấn đề
có liên quan của quan điểm này), đó là một lí thuyết dụng học mang tính xã hội:
lí thuyết cho rằng nói là hành động trong khuôn khổ những thiết chế và những
quy ước xã hội đã được giả định và chấp thuận bởi các thành viên (hay những người
tham gia tương tác). Khía cạnh này trong lí thuyết của Austin không phải bao giờ
cũng được nhấn mạnh một cách tương xứng.
Sự phân biệt thứ hai mà Austin nêu ra là giữa phát ngôn
ngôn hành tường minh và phát ngôn ngôn hành nguyên cấp. Về nguyên tắc, sự phân
biệt này áp dụng cho cả phát ngôn tường thuật lẫn phi tường thuật. Ở đây, chỉ cần
nói rằng phát ngôn ngôn hành tường minh là dạng mà phát-ngôn-thành-phẩm có chứa
những từ ngữ dùng để biểu thị hoặc, bằng một cách nào đó khác, chỉ rõ loại hành
động được thực hiện. Định nghĩa này cần được trau chuốt lại ở một vài phương diện.
Để nguyên như vậy, nội dung của nó có thể rộng hơn so với dự định của Austin,
nhưng lại hẹp hơn mức cần phải có. Nhưng chắc hẳn là nó bao quát tất cả những
ví dụ mà Austin và những người theo ông đã dùng để minh hoạ cho loại phát ngôn
ngôn hành. Đặc biệt, nó bao quát được các phát ngôn phi tường thuật của những
câu như (3). Những câu như vậy có chứa một động từ gọi là động từ ngôn hành, và
chính sự hiện diện của động từ này, ở đây là động từ ‘hứa’, ở dạng thức trực
thuyết, thì hiện tại đơn giản, cùng với chủ ngữ ở ngôi thứ nhất số ít, sẽ chỉ
rõ bản chất của cái hành động ngôn từ được thực hiện khi câu đó được nói ra để
hứa.
Tất nhiên, người ta có thể hứa mà không cần dùng một phát
ngôn ngôn hành tường minh như vậy. Ví dụ, ta có thể hứa bằng cách nói:
‘Tôi sẽ
trả anh/chị 5 Bảng’
Trong trường hợp này, ta đã dùng một phát ngôn mà Austin
gọi là ngôn hành nguyên cấp (tức không tường minh). Xét theo định nghĩa được
nêu trên đây, phát ngôn này là ngôn hành không tường minh, bởi lẽ tự thân
phát-ngôn-thành-phẩm không chứa từ ngữ nào chỉ ra rằng nó là một lời hứa chứ
không phải là dự báo hay nhận định.
Đó có thể xem là một sự trình bày đủ, mặc dù không chính
thức và phần nào chưa chính xác, về những gì mà Austin suy nghĩ khi ông nêu ra
sự khác biệt giữa phát ngôn ngôn hành tường minh và nguyên cấp. Cần lưu ý rằng
chính các phát ngôn, chứ không phải là các câu, được phân chia thành tường thuật
hoặc phi tường thuật, ngôn hành tường minh hoặc không tường minh. Khi các nhà
ngôn ngữ dùng thuật ngữ ‘câu ngôn hành’, họ thường viện đến các câu như ‘Tôi hứa
trả anh/chị 5 Bảng’, vốn chứa một động từ được gọi là ngôn hành và thường được
nói ra với tư cách là những phát ngôn phi tường thuật tường minh.
Như những gì đã được nói về câu trần thuật và phi trần
thuật ở chương 6 chỉ rõ, câu (4) là câu trần thuật, bởi lẽ nó thuộc về một loại
câu mà các thành viên điển hình được dùng một cách đặc trưng để nêu nhận định. Ở
điểm này, cần nhấn mạnh rằng nói như vậy không có nghĩa là mỗi thành viên hoặc
bất kì tiểu lớp nào của loại câu này đều chỉ được dùng thông thường với mục
đích đó. Cho dù (3) thậm chí không bao giờ được dùng để nêu nhận định mà chỉ để
hứa hẹn, nó vẫn là một câu trần thuật bởi cấu trúc ngữ pháp của nó. Và (3) tất
nhiên có thể được dùng (trong tiếng Anh chuẩn hiện nay) để nêu các loại nhận định
khác nhau. Không cần thiết phải nhắc đi nhắc lại điều này ở đây. Nhưng nó cần
phải được lưu tâm trong suốt chương này.
Trong phần tiếp theo, tôi sẽ dùng một số thuật ngữ của
Austin. Nhưng không phải bao giờ tôi cũng giải thuyết chúng một cách hoàn toàn
giống như Austin. Ở một vài trường hợp, cách giải thuyết của Austin không được
rõ ràng, ở những trường hợp khác thì đủ rõ nhưng lại gây tranh cãi. Vấn đề đáng
nói hơn là quan niệm của Austin về sự phân biệt giữa câu và phát ngôn là rất
khác với quan niệm mà tôi chấp nhận trong sách này. Vì vậy, tôi sẽ giải thích lại
lí thuyết hành động ngôn từ của Austin dưới ánh sáng của sự phân biệt này.
8.2. Hành động tạo lời
Cái mà Austin gọi là
hành động tạo lời chính là việc tạo ra một phát ngôn (tức phát-ngôn-thành-phẩm)
với một dạng thức cụ thể và một ý nghĩa ít nhiều xác định.
Nhiều phát ngôn mà
chúng ta dùng trong hội thoại hàng ngày, tức phần lớn các sản phẩm của hành động
tạo lời, là sai ngữ pháp (ungrammatical); một số thì đúng ngữ pháp nhưng bị tỉnh
lược (như: Ở đây lâu chưa?, Mùa đẹp trời của cả năm v.v...); một số thì vừa
không đúng ngữ pháp lại vừa không sai ngữ pháp; một số khác, tất nhiên, vừa
không đúng ngữ pháp vừa bất khả chấp, hậu quả của cái gọi là lỗi thể hiện: do sơ
ý, nhớ nhầm hoặc những trục trặc này nọ trong việc tạo ra các tín hiệu ngôn ngữ.
Bởi lúc này chúng ta chủ
ý giới hạn sự quan tâm đến các phát ngôn đúng ngữ pháp và không tỉnh lược nên
chúng ta tạm thời tránh một loạt những phức tạp mà việc thảo luận đầy đủ hơn về
các hành động tạo lời đòi hỏi. Đặc biệt, chúng ta tạm giả định rằng thực hiện một
hành động tạo lời tất nhiên phải là phát ngôn ra câu nói. Tuy nhiên, ở điểm
này, cần lưu ý một điều quan trọng là người ta có thể phát ngôn ra cùng một câu
mà không nhất thiết phải nói cùng một nội dung, và họ có thể nói cùng một nội
dung mà không nhất thiết phải phát ngôn ra cùng một câu.
Trong thực tế, có nhiều
cách người ta có thể hiểu cụm từ được dùng hàng ngày ‘nói giống nhau’. Lí thuyết
hành động ngôn từ của Austin có thể được xem như là lí thuyết dành cho vấn đề
này và giải thích (một phần nào) một vài ý nghĩa của động từ ‘nói’, theo đó nói
là hành động. Chúng ta hãy bắt đầu với nhận xét rằng câu sau đây là mơ hồ, thể
theo cái cách động từ ‘nói’ được dùng với nghĩa “xác nhận” hay “nói ra”:
‘John
và Mary nói giống nhau’.
Theo một cách hiểu, sự
giống nhau đó là giống nhau về các điều kiện chân thực và do đó, là biểu thị
cùng một nội dung mệnh đề, như trong:
‘John
và Mary cùng xác nhận một mệnh đề’
Theo cách hiểu khác,
câu trên đây có thể được khúc giải, theo siêu ngôn ngữ chuyên môn mà chúng ta
đã kiến tạo, như là:
‘John
và Mary tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm’.
Cũng cần thấy rằng, mặc
dầu từ ‘điều nói ra’ thường không bị coi là mơ hồ, vẫn có một khác biệt nổi bật
và quan trọng về mặt lí thuyết giữa các kiểu loại ‘điều nói ra’. Các mệnh đề,
như chúng ta đã thấy, là những thực thể trừu tượng thuộc một kiểu loại đặc biệt.
Trong khi đó, các phát-ngôn-thành-phẩm lại có những đặc tính vật lí, có thể được
xác định bằng giác quan này hay khác: nghe, nhìn, sờ mó v.v...
Từ những gì đã nói
trong những chương trước, rõ ràng là ta có thể xác nhận cùng một mệnh đề bằng
cách nói ra những câu khác nhau. Ý này bây giờ có thể cần được làm rõ thêm. Thứ
nhất, cùng một mệnh đề có thể được xác nhận (cho phép chúng ta giả định) bằng cách
nói ra các câu trong những ngôn ngữ khác nhau, ví dụ, cùng một nội dung mệnh đề
‘Trời mưa’ có thể nói:
‘It
is raining’ (tiếng Anh),
‘Il
pleut’ (tiếng Pháp),
(10)‘Es regnet’ (tiếng
Đức).
Thứ hai, cũng có thể
xác nhận cùng một nội dung mệnh đề bằng cách nói ra hai câu trong cùng một ngôn
ngữ, chẳng hạn dùng các câu chủ động và bị động tương đương, ví dụ như:
(11) ‘Con chó cắn người
đưa thư’
và
‘Người
đưa thư bị con chó cắn’.
Ngược lại, như chúng ta
đã thấy ở chương 7, người ta có thể xác nhận những mệnh đề khác nhau bằng cách
nói ra cùng một câu trong những ngữ cảnh khác nhau và bằng cách gán những giá
trị khác nhau cho các biểu thức quy chiếu trong câu đó. Ví dụ,
‘Bạn
tôi đang đợi tôi’
biểu thị vô số những mệnh
đề khác nhau tuỳ thuộc vào giá trị được gán cho ‘bạn tôi’, ‘tôi’ và cái thời
gian được quy chiếu bởi thì của động từ. Và như vậy, chúng ta đã thấy rằng có một
sự phân biệt quan trọng được nêu ra giữa việc phát ngôn ra câu và việc xác nhận
mệnh đề.
Cũng có một sự phân biệt
được nêu ra giữa việc phát ngôn ra câu và tạo ra các phát-ngôn-thành-phẩm. Điều
này có thể được thấy qua vài ví dụ đơn giản. Chúng ta giả định rằng John nói:
I’ll meet you at the
bank
Và Mary nói:
I’ll meet you at the
bank
Hoặc, một lần nữa,
chúng ta giả định là cả hai cùng nói:
Flying planes can be
dangerous.
Chắc chắn chúng ta có
thể đồng ý rằng theo một cách hiểu nghĩa của động từ ‘nói’, ở mỗi ví dụ, John
và Mary đều nói giống nhau: họ đã tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm. Chính
xác hơn (như chúng ta sẽ thấy ngay sau đây) họ đã tạo ra các hiện dạng (tokens)
của cùng một kiểu loại phát ngôn. Chúng ta cũng hãy đồng ý rằng, ở mỗi trường hợp,
cái mà họ nói ra là câu. Nhưng có phải cả hai đã nói ra cùng một câu không?
Điều quan trọng là thấy
rằng chúng ta không thể trả lời được câu hỏi này nếu không biết những dạng thức
nào đã được nói ra cũng như những cụm từ nào đã được họ tạo nên. Nếu bank trong
phát ngôn của John là một dạng thức của ‘bank 1’ (nghĩa là “ngân hàng”) còn
bank trong phát ngôn của Mary là một dạng thức của ‘bank 2’ (nghĩa là “sườn dốc
của một con sông”) thì họ đã nói ra những câu khác nhau. Tương tự, nếu flying
trong phát ngôn của John là một dạng thức của động từ nội động ‘fly’ (bay) (do
đó ‘flying planes’ có nghĩa nôm na là “những máy bay đang bay”) còn flying
trong phát ngôn của Mary là một dạng thức của động từ ngoại động tương ứng
‘fly’ (lái) (do đó ‘flying planes’ có nghĩa nôm na là “lái máy bay”) thì họ, một
lần nữa, đã nói những câu khác nhau. Đáng tiếc là tồn tại quá nhiều lẫn lộn
trong các văn liệu có liên quan đến điều vừa nói trên đây, do chỗ ngay từ đầu,
câu đã được những nhà ngữ pháp tạo sinh định nghĩa (một cách không truyền thống)
như là một chuỗi các dạng thức, vốn có thể hoặc không có cùng cấu trúc ngữ
pháp. Ở đây và xuyên suốt cuốn sách này, tôi đã chấp nhận một quan niệm có tính
truyền thống hơn về câu.
Sự thể rằng người ta có
thể tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm mà không phát ngôn ra cùng một câu là
một điểm khuất lấp trong rất nhiều công trình gần đây về ngữ nghĩa học và ngữ dụng
học, do chỗ các thuật ngữ ‘câu’ và ‘phát ngôn’ được dùng một cách lỏng lẻo. Ta
có thể đồng ý rằng Austin cũng là người thất bại trong cố gắng vạch ra một sự
phân biệt đủ sắc nét giữa câu và phát ngôn. Nhưng ông chắc chắn đã lưu ý đến điều
vừa được minh hoạ; và ông đã có sự hiểu biết sâu sắc hơn về mối quan hệ phức tạp
giữa câu và phát ngôn so với những gì mà nhiều môn đệ hình như đã hiểu. Bởi sự
phân tích của ông về các hành động tạo lời, mặc dù về một vài phương diện là
không được rõ và ở một số phương diện khác là khiếm khuyết về kĩ thuật, nhưng
rõ ràng đã dựa trên sự thừa nhận rằng các phát ngôn đồng nhất về mặt ngữ âm có
thể khác nhau xét theo các từ ngữ thành tố và cấu trúc ngữ pháp của chúng.
Điều này dẫn chúng ta đến
một luận điểm bổ sung: sự đồng nhất về ngữ âm không phải là điều kiện tất yếu để
đồng nhất các phát ngôn. Nếu chúng ta yêu cầu Mary nhắc lại phát ngôn của John ở
(14), chúng ta không mong gì cô ta bắt chước được chất giọng của anh ta hoặc
tái tạo lại những đặc trưng kèm lời như nhịp điệu, tiết tấu. Chúng ta thậm chí
cũng không mong cô ta nhại lại giọng của John, mặc dù nó có thể rất khác với giọng
của cô ta. Chẳng hạn, nếu John là người Luân Đôn thuộc tầng lớp công nhân với
giọng Cockey, còn Mary là một quý bà tầng lớp trên vùng New England thì họ sẽ
phát âm câu ‘I’ll meet you at the bank’ cũng như hầu hết các phát ngôn tiềm
tàng khác của tiếng Anh theo những cách khác nhau. Thế nhưng trong nhiều trường
hợp, nếu không nói là tất cả, các cặp phát-ngôn-thành-phẩm khác biệt nhau về ngữ
âm sẽ được người bản ngữ xác định như là các hiện dạng (tokens) của cùng một điển
dạng (type).
Điều này cho thấy sự đồng
nhất ngữ âm không phải là điều kiện tất yếu cho việc đồng nhất điển dạng/hiện dạng
của các phát-ngôn-thành-phẩm. Nó cũng minh chứng một điều rằng sự đồng nhất điển
dạng/hiện dạng của phát ngôn, trong chừng mực nào đó, là độc lập đối với lí
thuyết: nó có thể được xác lập trong những ví dụ cụ thể mà không cần tham chiếu
đến những lí thuyết này nọ về cấu trúc ngôn ngữ. Nhưng sự độc lập về lí thuyết,
theo cái nghĩa này, sẽ không còn nữa nếu tính đến đường nét ngữ điệu của phát
ngôn. Trong cuộc sống hàng ngày, đơn giản là ta không rõ liệu hai cách phát âm
phân biệt về ngữ điệu của câu ‘I’ll meet you at the bank’ có được xem là chỉ hiệu
của cùng một kiểu loại hay không. Trong cả hai trường hợp đều có chỗ để tranh
luận liệu sự trọng âm và ngữ điệu có quan yếu hay không. Tuy nhiên, để đơn giản
việc trình bày, ở đây tôi sẽ theo quan điểm cho rằng để hai người có thể tạo ra
cùng một phát-ngôn-thành-phẩm, chỉ cần họ phát ngôn những gì mà họ và những người
khác thừa nhận là cùng một chuỗi các dạng thức, bất luận đường viền ngữ điệu và
mô hình trọng âm trùm lên nó. Và tôi cũng sẽ theo quan điểm này khi xem xét câu
.
Ví dụ, nếu John nói:
It’s raining.
(Trời đang mưa)
với ngữ điệu đi xuống
và mô hình trọng âm trung hoà, trong khi Mary nói:
It’s raining.
(Trời đang mưa)
với trọng âm nhấn mạnh
và ngữ điệu đi lên ở dạng thức raining (mưa), tôi sẽ cho rằng họ không những đã
tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm mà còn đã nói ra cùng một câu:
(19) ‘It’s raining’
Tôi cũng xem sự tương
phản it is đối với it’s và tất cả những hiện tượng tương tự là không quan yếu đối
với việc đồng nhất điển dạng/hiện dạng các phát-ngôn-thành-phẩm. Đây không phải
là vấn đề gì to tát về mặt lí thuyết và phương pháp luận. Nhiều nhà ngôn ngữ học
có thể không đồng ý, trên cơ sở lí thuyết, với quan điểm mà tôi lựa chọn ở đây.
Nhưng đến nay đã có một vài người quan tâm nghiêm túc đến vấn đề này; và rất
nhiều điểm thoạt nhìn tưởng như là bất đồng thật sự hoá ra có thể chỉ là bất đồng
thuần tuý về thuật ngữ.
Bây giờ chúng ta có thể
chia việc thực hiện một hành động tạo lời ra làm hai phần độc lập về lô gich:
(i) sự tạo ra phát-ngôn-thành-phẩm theo một số phương tiện vật chất thích hợp;
và (ii) sự cấu tạo nên một câu như thế nào đó. Chúng độc lập với nhau về mặt lô
gich, bởi lẽ cùng một phát-ngôn-thành-phẩm có thể ứng với hai hoặc nhiều hơn
các câu khá khác nhau và ngược lại, cùng một câu có thể ứng với hai hoặc nhiều
hơn các phát-ngôn-thành-phẩm khá khác nhau. Sử dụng các thuật ngữ của Austin,
chúng ta có thể nói rằng hành động tạo lời là sản phẩm của (i) một hành động ngữ
âm (phonic act) để tạo ra một phát-ngôn-thành-phẩm (trong chất liệu âm thanh);
và (ii) một hành động ngữ vựng (phatic act) để kiến tạo nên một câu cụ thể
trong một ngôn ngữ cụ thể. Hành động đầu tiên trong số hai hành động này tất
nhiên phụ thuộc vào việc sử dụng phương tiện là chất liệu này hay chất liệu
khác. Việc tạo ra các phát ngôn bằng những chất liệu phi âm thanh, chủ yếu khi
ta viết chứ không phải nói, sẽ liên quan đến các hành động phi cấu âm này hay
khác. Như tôi đã nói từ đầu, thuật ngữ ‘hành động ngôn từ’ lẽ ra không nên được
hiểu như là chỉ áp dụng cho việc tạo ra các phát ngôn lời nói. Điều này cũng
đúng đối với thuật ngữ ‘hành động tạo lời’.
Chúng ta vẫn chưa kết
thúc việc phân tích các hành động tạo lời; chúng ta vẫn còn phải tính đến sự thể
là các câu được nói ra trong những ngữ cảnh cụ thể và một phần ý nghĩa của
phát-ngôn-thành-phẩm có được là phái sinh từ cái ngữ cảnh mà ở đó nó được hiện
thực hoá. Đây chủ yếu là nói về sở chỉ của các biểu thức quy chiếu được dùng
trong phát ngôn; và sở chỉ, như chúng ta đã thấy ở Phần 3, là một phần ý nghĩa
của phát ngôn chứ không phải của câu. Thành tố thứ ba của hành động tạo lời, vốn
bao gồm sự gán định sở chỉ và có thể được miêu tả một cách khái quát hơn như là
quá trình ngữ cảnh hoá (contextualization) được Austin gọi là hành động ngữ chiếu
(rhetic act).
Tôi sẽ không tiếp tục
dùng các thuật ngữ ‘ngữ âm’, ‘ngữ vựng’, và ‘ngữ chiếu’ của Austin. Chúng không
được dùng rộng rãi trong các tài liệu ngôn ngữ học và trong bất kì tình huống
nào, tôi cũng đã hiểu chúng có phần khác so với Austin. Điều quan trọng chính
là bản thân sự phân tích tam phân, như chúng ta đã thấy, vốn dựa một phần vào sự
phân biệt giữa ngôn ngữ và phương tiện, một phần vào sự phân biệt giữa câu và
các phát-ngôn-thành-phẩm.
Có thể cần nói thêm rằng,
chiểu theo những lẫn lộn và nhầm lẫn tương đối phổ biến tồn tại ở khía cạnh
này, sự phân biệt giữa câu và phát-ngôn-thành-phẩm không chỉ đơn giản là sự
phân biệt giữa điển dạng và hiện dạng. Điều này xuất phát từ thực tế là hai phát-ngôn-thành-phẩm
được tạo ra trong những ngữ cảnh khác nhau có thể được xem như là những hiện dạng
của cùng một điển dạng mà không cần biết những câu nào đã được nói ra. Hơn thế
nữa, như tôi đã nhấn mạnh trong mục này, các hiện dạng của cùng một
phát-ngôn-thành-phẩm có thể là kết quả của việc nói ra các câu khác nhau và ngược
lại, các hiện dạng của các phát-ngôn-thành-phẩm khác nhau có thể có được bằng
cách phát ngôn cùng một câu trong những ngữ cảnh khác nhau. Đây là điểm cốt tử
đối với bất kì lí thuyết về cấu trúc ngôn ngữ nào vận hành với khái niệm ít nhiều
mang tính truyền thống về cái đơn vị gọi là câu. Bất kì ai, khi đã chấp nhận
quan điểm truyền thống về câu (như chúng ta chấp nhận trong cuốn sách này) đều
cũng muốn có quyền nói rằng, ví dụ, hiện dạng của:
Tôi đã,
bất luận được nói ra
hay viết ra, là kết quả của việc thể hiện vô số các câu. Họ sẽ cho rằng (20) là
dạng tỉnh lược của bất kì câu nào trong tập hợp các câu bao gồm:
‘Tôi
đã rửa chén bát’
‘Tôi
đã đến California’
‘Tôi
đã có một cái máy tính cá nhân’
Ngược lại, họ cũng muốn
cho (như tôi) rằng một câu như:
‘Tôi
đã rửa chén bát’
có thể được nói ra
không phải chỉ như là:
Tôi đã rửa chén bát,
mà còn như là:
Tôi đã làm xong
Tôi đã
Tôi
(với một vài đường nét
ngôn điệu thích hợp, nếu những phát ngôn này được thể hiện bằng phương tiện âm
thanh). Như chúng ta sẽ thấy ở chương 9, sự phân tích hành động tạo lời được
phác hoạ trong mục này cho phép chúng ta đi đến những nhận định như vậy theo một
cách thoả đáng cả về lí thuyết lẫn kinh nghiệm. Nhưng bây giờ, khi tôi đã giải
thích khá chi tiết những gì có liên quan đến sự thực hiện một hành động tạo lời,
chúng ta có thể bàn đến điều được mọi người thừa nhận như là đóng góp đặc sắc
nhất của Austin trong việc nghiên cứu ý nghĩa: sự phát triển của ông về khái niệm
lực ngôn trung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét