Linguistic Semantics:
An Introduction
Chương 1: Những mở đầu
về siêu ngôn ngữ (5)
1.5. Từ: dạng thức và
nghĩa
Đây là lúc thuận lợi để
đưa ra những quy ước trình bày nhằm phân biệt dạng thức và nghĩa, cơ sở cho các
thao tác của ta trong suốt cuốn sách này. Ngay từ ví dụ đầu tiên, đã có những
giải thích về dạng thức và ý nghĩa của từ. Sự giải thích này sau đó có thể mở rộng,
như chúng ta sẽ thấy, cho các ngữ đoạn, câu và các biểu thức ngôn ngữ khác.
Một trong những giả định
ngầm ẩn mà ta đã tuân thủ và bây giờ có thể được làm rõ là các từ (và các biểu
thức ngôn ngữ khác, gồm ngữ đoạn và câu) thì có ý nghĩa. Chúng cũng có dạng thức
(form): thực tế, trong tiếng Anh cũng như bất kì các ngôn ngữ tự nhiên khác, những
ngôn ngữ gắn với một hệ thống chữ viết, bất luận là theo thứ tự bảng chữ cái
hay không, và được dùng rộng rãi, thì từ có cả dạng thức nói lẫn dạng thức viết
được chấp nhận theo quy ước. (Trong một số trường hợp, cùng một ngôn ngữ nói lại
gắn với những hệ thống chữ viết khác nhau, cho nên cùng một từ được nói ra có
thể có vài dạng thức chữ viết khác nhau. Ngược lại, và thú vị hơn, nhiều ngôn
ngữ nói (spoken languages) khác biệt nhau về âm vị học lại có thể thể gắn bó với
không chỉ cùng một hệ thống chữ viết mà còn với cùng một ngôn ngữ viết (written
language), miễn sao, như trường hợp của cái được gọi là những phương ngôn của
tiếng Trung Quốc hiện đại, tồn tại một mức độ thích đáng về tính đẳng hình
(isomorphism) ngữ pháp và đẳng hình từ vựng trong số các ngôn ngữ nói khác nhau
đó, tức là một mức độ đồng nhất được chấp nhận về cấu trúc ngữ pháp và từ vựng).
Nói chung, chúng ta không cần phải nêu ra sự phân biệt giữa ngôn ngữ viết và
ngôn ngữ nói, mặc dù để thực hiện điều đó, khi cần thiết thì một số quy ước đã
được xác lập khá hoàn hảo trong ngôn ngữ học (bao gồm việc sử dụng các kí hiệu
phiên âm quốc tế, được đặt trong dấu ngoặc vuông hoặc dấu nghiêng để biểu thị
các dạng thức ngữ âm hay âm vị). Tuy nhiên, chắc chắn cần phải phân biệt cái đơn
vị từ (được xem như là một đơn vị hai mặt) với cả dạng thức lẫn ý nghĩa của nó.
Và để thực hiện điều này, ta có thể sử dụng cái dạng thức viết thường ngày của
từ để biểu thị không chỉ bản thân cái từ đó như là một đơn vị có hai mặt hình
thức và nội dung, mà còn để biểu thị hoặc dạng thức hoặc ý nghĩa, được coi là độc
lập với nhau. Người ta đã làm như vậy khi dùng tiếng Anh và các ngôn ngữ thường
ngày khác làm siêu ngôn ngữ trình bày. Tuy nhiên, để làm rõ chức năng nào trong
số ba chức năng siêu ngôn ngữ khác nhau trên đây đã được cái dạng thức viết của
từ thực thi trong một trường hợp cụ thể, ta cần xác lập những quy ước trình bày
đặc biệt.
Đáng tiếc là, những quy
ước trình bày được các nhà ngôn ngữ học sử dụng phổ biến nhất lại không thể
phân biệt rõ ràng và nhất quán, một mặt, giữa các từ (và các biểu thức khác) và
mặt khác, giữa các dạng thức hoặc ý nghĩa của chúng. Trong cuốn sách này, các dấu
trích đơn (single quotation-marks) sẽ được dùng để biểu thị từ và các đơn vị
hai mặt với cả dạng thức lẫn nghĩa khác; các chữ in nghiêng (italic) (không có
dấu trích) để biểu thị dạng thức (bất luận ở dạng nói hay dạng viết); và dấu
trích kép (double quotation-marks) để biểu thị nghĩa (hoặc nghĩa hệ thống).
Với một chút ngẫm nghĩ,
ta sẽ thấy rằng tất cả những gì được ta thực hiện cho đến bây giờ là hệ thống
hoá và điển chế hoá (tức quy định) một số quy ước về tiếng Anh viết với tính
cách là siêu ngôn ngữ đời thường, nhằm vào những mục đích riêng của chúng ta.
Khi những người sử dụng tiếng Anh bình thường (hoặc những ngôn ngữ tự nhiên
khác) muốn dẫn ra một từ, họ sẽ trích dẫn nó hoặc dưới dạng viết hoặc dưới dạng
nói, tuỳ từng trường hợp. Ví dụ, họ có thể nói:
(20) Can you tell me
what ‘sequipdalian’ means?
(Bạn có thể nói cho tôi
biết từ ‘sequipdalian’ có nghĩa là gì không?)
và câu trả lời có thể
là:
(21) I’m sorry, I
can’t: look it up in the dictionary
(Rất tiếc là tôi không
thể: hãy xem nó trong từ điển)
ở đây, từ ‘it’ (nó) ,
trong ngữ cảnh, vừa chỉ ra lại vừa có thể được thay thế bằng từ ‘sequipdalian’.
Tương tự, những từ điển quy ước của tiếng Anh và các thứ tiếng khác gắn với một
hệ thống chữ viết ghi âm tố sẽ đồng nhất từ với dạng thức của chúng, liệt kê
chúng theo một trật tự chữ cái thuần tuý quy ước, vốn được dạy ở trường phổ
thông nhằm vào chính mục đích này.
Ta vừa công khai chấp
nhận một quy ước trình bày để phân biệt từ (và các biểu thức ngôn ngữ khác) với
cả nghĩa lẫn dạng thức của chúng. Nhưng trong nhiều ngôn ngữ, bao gồm cả tiếng
Anh, từ cũng có thể có hơn một dạng thức. Chẳng hạn, danh từ ‘man’ (người đàn
ông) có những dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp man, man’s, men và man’s; động
từ ‘sing’ (hát) có những dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp sing, sings,
singing, sang và sung; v.v... Các dạng thức khác biệt về ngữ pháp của cùng một
từ này được truyền thống miêu tả như là các dạng thức biến hình (inflectional):
giống như phần lớn các danh từ đếm được trong tiếng Anh, danh từ ‘man’ biến đổi
hình thái theo các đặc trưng ngữ pháp (chính xác hơn, là các đặc trưng hình
thái-cú pháp (morphosyntactic) về số ít/số nhiều và sở hữu; giống như phần lớn
các động từ trong tiếng Anh, động từ ‘sing’, biến đổi hình thái theo các phạm
trù ngữ pháp về thời (thời hiện tại khác với thời quá khứ) v.v... Một số ngôn
ngữ biến đổi hình thái ở mức độ cao hơn các ngôn ngữ khác. Tiếng Anh, khác với
tiếng Nga hoặc tiếng Latin, hoặc thậm chí khác với tiếng Pháp, tiếng Italia...
hay tiếng Đức, không có nhiều biến thể hình thái trong dạng thức của từ; và một
số ngôn ngữ (được gọi là ngôn ngữ phân tích tính, hay ngôn ngữ đơn lập) đáng
chú ý như tiếng Việt, tiếng Hán thì không biến hình. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa
từ và dạng thức của nó là quan trọng, ngay cả khi từ không có các dạng thức biến
hình phân biệt.
Đối với tiếng Anh và
các ngôn ngữ khác, trong số các dạng thức biến hình của một từ, một dạng thức sẽ
được quy ước xem như là dạng trích dẫn (citation-form), nghĩa là dạng được dùng
để trích, để chỉ ra chính cái từ mà nó đại diện với tư cách là một phức thể. Và
đó thường là dạng trích dẫn thường được thấy, theo thứ tự bảng chữ cái, ở đầu mỗi
mục từ trong các từ điển quy ước tiếng Anh và những ngôn ngữ gắn bó với hệ thống
văn tự xếp theo bảng chữ cái khác.
Cái dạng trích dẫn thường
ngày của một từ được chấp nhận theo quy ước không nhất thiết phải là cái dạng
thức mà nhà ngôn ngữ học có thể xác định như là gốc từ hoặc thân từ. Nói chung
thì trong tiếng Anh ngẫu nhiên mà dạng trích dẫn thường ngày của phần lớn các từ
trùng với thân từ của chúng, trừ các động từ. Nhưng tình hình như vậy không xảy
ra ở tất cả các ngôn ngữ. Trong cuốn sách này, đối với tất cả các ngôn ngữ khác
tiếng Anh, chúng ta sẽ sử dụng bất kì dạng trích dẫn nào được thừa nhận rộng
rãi nhất trong truyền thống từ điển học chủ lưu của các ngôn ngữ ấy. Trong tiếng
Anh, khi xem xét động từ thì có hai cách quy ước để chọn lựa. Cách quy ước có
tính thường ngày, đậm tính truyền thống hơn nhưng hiện nay ít được nhà ngôn ngữ
học thừa nhận hơn, là sử dụng cái được gọi là dạng nguyên thể, vốn gồm tiểu từ
to cộng với thân từ (hoặc trong trường hợp các động từ bất quy tắc, cộng với một
trong các thân từ), ví dụ: ‘to love’, ‘to sing’, ‘to be’... Cách quy ước ít
mang tính truyền thống hơn, mà tôi chấp nhận, là sử dụng thân từ (hoặc một
trong số các thân từ) không chỉ cho danh từ, đại từ, tính từ, trạng từ mà còn cả
cho động từ, nghĩa là không chỉ dùng ‘man’, ‘she’, ‘good’, ‘weel’ mà còn
‘love’, ‘sing’, ‘be’... Có những lí do xác đáng để chọn thân từ (hoặc một trong
số thân từ) với tư cách là dạng trích dẫn trong những ngôn ngữ như tiếng Anh.
Tuy nhiên, về nguyên tắc thì việc chọn một dạng thức này chứ không phải một dạng
thức khác trong siêu ngôn ngữ để chỉ chính cái từ mà nó đại diện là mang tính
võ đoán và chỉ là một vấn đề quy ước.
Phần lớn các từ tiếng
Anh không phải chỉ có hơn một dạng thức. Chúng còn có thể có hơn một nghĩa; và
xét theo khía cạnh này thì tiếng Anh là tiêu biểu cho các ngôn ngữ tự nhiên. (Mặc
dù tồn tại những ngôn ngữ tự nhiên trong đó mỗi từ có một và chỉ có một dạng thức,
nhưng gần như chắc rằng không có, và chưa hề có ngôn ngữ tự nhiên nào trong đó
mỗi từ có một và chỉ một nghĩa). Ví dụ, từ ‘food’ (bàn chân) có một số nghĩa. Nếu
chúng ta muốn phân biệt các nghĩa này khi trình bày, chúng ta có thể đánh số
chúng và ghi kèm các số này như là chú dẫn cho các kí hiệu biểu nghĩa, ví dụ:
‘food1’, ‘food2’,‘food3’... Khái quát hơn, giả định rằng X là dạng trích dẫn của
một từ, chúng ta sẽ biểu thị từ đó là ‘X’ và nghĩa của nó (tức tập hợp một hoặc
hơn một các nghĩa của nó) là “X”; và nếu nó có hơn một ý nghĩa thì chúng ta có
thể phân biệt các ý nghĩa này như là “X1”, “X2”, “X3” v.v...
Tất nhiên, việc dùng
các chú dẫn như vậy chỉ là một công cụ trình bày giản tiện, không nói lên điều
gì cả về nghĩa của từ. Khi nào cần phải xác định các nghĩa khác nhau chứ không
phải chỉ là biểu diễn kí hiệu như trên đây, chúng ta có thể dùng lối định nghĩa
hoặc khúc giải. Ví dụ, đối với từ ‘foot’, chúng ta có thể nói rằng “foot1” là
“phần kết thúc của chân”, rằng “foot2” là “phần thấp nhất của một ngọn đồi hay
ngọn núi”... Làm thế nào để xác định được một định nghĩa hay cách khúc giải nào
đó là đúng hay sai sẽ là vấn đề được thảo luận ở Phần 2. Ở đây tôi chỉ đơn giản
quan tâm đến việc giải thích hệ thống siêu ngôn ngữ mà tôi đang sử dụng. Nhưng ở
điểm này tôi cũng nên nói rõ là việc sử dụng hệ thống trình bày mà tôi đang xây
dựng đây là dựa vào giả định rằng các nghĩa của từ đều mang hai đặc điểm sau:
(i) tách biệt, và (ii) có thể phân biệt với nhau. Giả định này là điều thường được
những người làm từ điển (và nhà ngôn ngữ học) định ra và được phản ánh trong kết
cấu của hầu hết các từ điển chuẩn tắc.
Nhưng đối với những
sinh viên trước đó chưa hề có kinh nghiệm về việc này thì việc lấy một số các từ
tiếng Anh chung, như là ‘foot’, ‘game’, ‘table’, ‘tree’... và tra chúng trong một
vài từ điển tường giải có uy tín sẽ là một kinh nghiệm hữu ích. Họ sẽ phát hiện
nhiều khác biệt chi tiết, không chỉ về các định nghĩa được đưa ra, mà còn cả về
số lượng các nghĩa được gán cho mỗi từ. Họ cũng sẽ thấy rằng một số từ điển, chứ
không phải là tất cả, thể hiện những phân biệt ở mức độ chi tiết hơn, chẳng hạn
như không chỉ phân biệt “X1” với “X2”, “X3”... mà còn phân biệt “X1a” với
“X1b”, “X1c” v.v... ít nhất thì việc so sánh một số từ điển khác nhau theo cách
như vậy cũng sẽ giúp làm sáng tỏ một điều là thật không dễ xác định một từ có
bao nhiêu nghĩa, như những suy nghĩ loáng thoáng ban đầu có thể tưởng tượng ra.
Nó cũng sẽ khiến ta nghi ngờ cái quan điểm cho rằng mọi từ điển đều đáng tin như
nhau, và cũng nghi ngờ cái quan điểm ngược lại rằng một từ điển cá biệt nào đó
(từ điển tiếng Anh của Oxford, của Webster v.v...) là duy nhất đáng tin cậy. Thực
tế, nó thậm chí còn gieo thêm nghi ngờ rằng trong nhiều trường hợp, việc xác định
một từ có bao nhiêu nghĩa không chỉ là khó khăn về mặt thực hành, mà còn là bất
khả thi về nguyên tắc. Nghi ngờ này, như ta sẽ thấy, được khẳng định bởi những
thể nghiệm lí thuyết và thực hành từ điển học về sau.
Bây giờ cần nói đôi
chút về hiện tượng các từ đồng âm (homonyms): các từ khác nhau nhưng có cùng một
dạng thức (theo định nghĩa truyền thống). Phần lớn các từ điển phân biệt các từ
đồng âm bằng cách gán cho chúng các chữ số (hoặc con chữ) phân biệt và cấp cho
mỗi từ đồng âm một mục từ riêng. Chúng ta sẽ dùng các chú thích chữ số. Ví dụ,
các từ ‘bank1’, có nghĩa là “tổ chức tài chính”, và ‘bank2’, có nghĩa là “sườn
dốc của một con sông”, được xem là các từ đồng âm (xem hình 1.1). Việc chúng được
các tác giả hoặc các nhà biên soạn của một cuốn từ điển nào đó phân loại là những
từ đồng âm – tức những từ riêng biệt nhau (phần lớn các từ điển tiếng Anh đều
phân loại chúng như vậy) – là quá rõ bởi chúng được cấp cho những mục từ riêng
rẻ (bất chấp chúng có được đính kèm các con số hoặc con chữ phân biệt hay
không). Một điều được giả định là những ai tham khảo từ điển đều có một hiểu biết
cảm tính nào đó về khái niệm đồng âm truyền thống, thậm chí ngay cả khi họ
không biết thuật ngữ truyền thống dùng để chỉ hiện tượng này, ví dụ, mặc nhiên
là những người tham khảo từ điển sẽ nhất trí rằng ‘bank1’ là một từ khác biệt với
‘bank2’ và về mặt trực giác thìhiểu được rằng nói chúng là những từ khác biệt
nhau thì ngụ ý gì. Tuy nhiên, như ta sẽ thấy ở Phần 2, khái niệm truyền thống về
đồng âm không thật rõ ràng như ấn tượng đầu tiên của ta về nó và cần được làm
rõ hơn. Mặc dù ta tạm hoãn lại cuộc thảo luận đầy đủ hơn về từ đồng âm, thì vẫn
có thể là hữu ích nếu ta trả lời trước một câu hỏi có thể đã xuất hiện ở bạn đọc,
liên quan đến một hoặc hai ví dụ tôi vừa dẫn ra trong mục này. Nếu từ đồng âm
là những từ có cùng dạng thức nhưng khác nhau về ý nghĩa thì tại sao chúng ta lại
nói, ví dụ, “phần cuối của một cái cẳng chân” và “phần thấp nhất của một một ngọn
đồi hay ngọn núi” là những nghĩa khác nhau của cùng một từ ‘foot’. Phải chăng
ta không nên nói, như đã nói về các từ ‘bank1’ và ‘bank2’,rằng hai từ khác
nhau, ‘foot1’ và ‘foot2’,là có liên quan với nhau?
bank
Hình 1.1
Nói một cách ngắn gọn
thì có hai lí do để ‘bank1’ và ‘bank2’ được truyền thống xem là hai từ đồng âm.
Trước hết, chúng khác biệt nhau về mặt từ nguyên (etymologically): ‘bank1’ được
mượn từ tiếng Ý (so sánh với từ tiếng Ý hiện đại ‘banca’); còn ‘bank2’ có thể được
truy dấu vết từ tiếng Anh trung đại, và xa hơn là có nguồn gốc từ một từ
Scandinavian (suy cho cùng thì có liên quan đến nguồn gốc German của từ tiếng Ý
‘banca’, nhưng khác biệt với nó trong quá trình phát triển lịch sử). Thứ hai,
chúng được xem là không liên quan về ngữ nghĩa (semantically unrelated), tức người
ta cho rằng không có mối liên hệ, chính xác hơn, là không có mối liên hệ được cảm
nhận về mặt đồng đại nào giữa nghĩa của ‘bank1’ và ‘bank2’. Trong khi đó, hai ý
nghĩa (hoặc hơn) của từ ‘foot’ là có liên quan về từ nguyên và ngữ nghĩa; trật
tự đánh số và liệt kê chúng trong từ điển nói chung phản ánh quan điểm của người
biên soạn về mức độ quan hệ gần gũi nhau của chúng, hoặc về phương diện lịch sử
hoặc về phương diện đồng đại.
Khái niệm về mối liên hệ
ngữ nghĩa sẽ được chúng ta xem xét kĩ hơn về sau, độc lập với việc khái niệm đồng
âm đóng vai trò như thế nào (hoặc thực sự là có vai trò gì không) trong ngữ
nghĩa học hiện đại. Bây giờ, chỉ cần lưu ý rằng, một khi đã chấp thuận khái niệm
đồng âm của truyền thống, thường chúng ta có thể xác định một nghĩa của từ như
là cái nghĩa trung tâm hơn (hoặc, nói theo cách khác, như là cái nghĩa trội hơn
về ngữ cảnh) so với các nghĩa khác. Đây chính là cái nghĩa mà tôi muốn độc giả
nghĩ đến mỗi khi tôi viện đến nghĩa của từ (mà không hề nói gì thêm) bằng kí hiệu
dấu trích kép đã được giới thiệu trên đây. Khi cần thiết, một nghĩa có thể được
phân biệt với các nghĩa khác bằng các kí hiệu chú thích hoặc bằng cách đính
kèm, trong dấu trích kép, một khúc giải hay một định nghĩa (bộ phận) phù hợp với
mục đích của ta. Như ta vừa thấy, các từ đồng âm có thể được phân biệt với nhau
theo cùng một cách. Ví dụ, ta có thể phân biệt ‘sole1’ với ‘sole2’ (với giả định
rằng đây đích thực là hai từ đồng âm, ở đây trực cảm của các độc giả có thể rất
khác biệt nhau), bằng cách nói rằng từ thứ nhất có nghĩa (nôm na) là “phần đáy
của bàn chân hay giày” và từ thứ hai là “một loại cá”. Tuy nhiên, phải thấy rằng
kí hiệu trình bày, tự bản thân nó, chẳng qua cũng chỉ là một công cụ mà, như
các công cụ khác, cần được sử dụng với một sự thận trọng và một kĩ năng thích hợp.
Luận điểm này đáng được nêu ra ở đây, liên quan đến nhiệm vụ tương đối đơn giản
– gần như là tầm thường – về những quy định đối với việc sử dụng chữ in nghiêng
và các dấu trích cho các kiểu quy chiếu siêu ngôn ngữ khác nhau. Nó càng quan
trọng hơn khi ta dùng đến các kí hiệu trình bày đặc biệt hơn, sẽ được giới thiệu
trong các chương tiếp theo.
Như tôi đã nói từ trước,
trong nhiều trường hợp hiện tượng đồng âm không thể được xác định chắc chắn như
các trường hợp vừa được dẫn ra trong mục này khi nói về ‘bank1’ và ‘bank2’ hoặc
‘sole1’và ‘sole2’. Điều này sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong chương 2. Ta
cũng làm như vậy đối với sự khác biệt giữa những biến thể ngữ nghĩa mà theo đó,
thuật ngữ ‘từ’ được dùng theo cả nghĩa chuyên môn lẫn nghĩa thông thường hàng
ngày. Cho đến lúc đó, ‘từ’ sẽ được sử dụng một cách lỏng lẻo và, như ta sẽ thấy
ngay sau đây, mơ hồ (như nó thường được dùng trong đời thường). Trong lúc đó, độc
giả nên lưu ý thường xuyên về tầm quan trọng của việc không được lẫn lộn các biểu
thức ngôn ngữ tự nhiên, như từ, ngữ đoạn và câu, với dạng thức của chúng (hoặc
bất kì dạng thức nào trong số các dạng thức của chúng). Muốn vậy, cần chú ý đặc
biệt đến các quy ước trình bày đã được giới thiệu trên đây.
Cuối cùng, độc giả cũng
nên chú ý là: (i) có thể có sự không ăn khớp nhau giữa dạng thức nói và dạng thức
(hoặc các dạng thức) viết của từ (như đã được nêu ra nhưng không thảo luận ở đầu
mục này); (ii) có nhiều cách khác nhau, theo đó các dạng thức có thể được coi
là đồng nhất với nhau hoặc không. Việc dùng thuật ngữ ‘dạng thức’ (và cả cái từ
phái sinh của nó ‘thuộc về dạng thức’) trong ngôn ngữ học đôi khi vừa lộn xộn vừa
gây khó hiểu (xem Lyons 1968: 135–137). Tạm thời, về (i) và (ii), tôi thấy chỉ
cần giải thích một cách vắn tắt các biến thể nghĩa hệ thống của thuật ngữ ‘dạng
thức’ có quan hệ với nhau như thế nào và làm sao chúng có thể được phân biệt với
nhau nếu cần phải phân biệt và khi cần phải phân biệt.
Ta đã bắt đầu từ sự
phân biệt mang tính siêu ngôn ngữ, ít nhiều có tính đời thường, phi chuyên môn,
giữa dạng thức và nghĩa bằng cách nói rằng từ (và các biểu thức khác) không phải
là có dạng thức, mà là có một dạng thức. Sau đó ta thấy rằng, ở một số trường hợp
và ở một số ngôn ngữ, từ (và các biểu thức khác) có thể có hơn một dạng thức, vốn
thường – có điều không nhất thiết – phân biệt với nhau theo chức năng ngữ pháp.
Ta hãy tạm thời bỏ qua cái thực tế là từ có thể có hơn một dạng thức phân biệt
với nhau về ngữ pháp (hoặc về biến hình): nói như vậy tức cũng giả định rằng ta
chỉ (tạm thời) quan tâm đến các ngôn ngữ đơn lập, hoặc phân tích tính, như tiếng
Hán cổ (Classical Chinese) hoặc tiếng Việt.
Lợi dụng khả năng có thể
dùng từ ‘form’ (dạng thức) vừa như một danh từ đơn vị, vừa như một danh từ khối
(như tôi đã thực hiện trong đoạn văn trên và trong suốt mục này), bây giờ ta có
thể nói rằng hai dạng thức là đồng nhất (theo một nghĩa nào đó về ‘đồng nhất’)
nếu chúng có cùng một dạng thức. Ví dụ, hai dạng thức nói sẽ đồng nhất về mặt
ngữ âm nếu cùng có cùng một cách phát âm; hai dạng thức viết (trong một ngôn ngữ
dùng văn tự ghi âm tố) sẽ đồng nhất về chính tả nếu chúng có cùng cách viết. (Sự
đồng nhất chính tả cần lập thức hơi khác đối với những ngôn ngữ dùng văn tự
không ghi âm tố, nhưng điều này không ảnh hưởng đến việc áp dụng khái niệm đồng
nhất chính tả cho những ngôn ngữ như vậy). Trong chừng mực ta quan tâm đến ngôn
ngữ nói, một sự phân biệt xa hơn có thể được chỉ ra, giữa đồng nhất ngữ âm và đồng
nhất âm vị. Những sinh viên đã quen với sự phân biệt này sẽ thấy được các vấn đề
liên quan trong những trường hợp cụ thể; còn những ai không quen với sự phân biệt
này thì không cần bận tâm đến nó. Chính sự đồng nhất thông thường về âm vị là vấn
đề gây tranh cãi trong ngữ nghĩa học. Nhưng để đơn giản cho việc trình bày, ở
điểm này tôi sẽ không nói đến sự khác biệt giữa đồng nhất ngữ âm và đồng nhất
âm vị, tôi chỉ đơn giản đề cập đến những dạng thức đồng nhất hay không đồng nhất
về ngữ âm (ở giọng điệu hay phương ngữ nào đó).
Tiếng Anh (ở hầu hết
các phương ngữ) minh hoạ dễ dàng cho cái thực tế rằng hai (hoặc nhiều hơn) dạng
thức viết có thể đồng nhất về mặt ngữ âm: so sánh soul và sole, great và grate,
hoặc red và read (theo một trong số các cách phát âm khác nhau của nó). Tiếng
Anh cũng cho thấy rằng hai hoặc hơn hai dạng thức khác nhau về ngữ âm có thể đồng
nhất về mặt chữ viết: so sánh read ( trong have read đối lập với will read),
blessed (trong The bishop blessed the congregation đối lập với Blessed are the
peacemarkers). Kiểu đồng nhất mà ta vừa thảo luận và minh hoạ như vậy có thể được
gọi là đồng nhất chất liệu (meterial identity). Như tôi đã giải thích, nó phụ
thuộc vào cái phương tiện dùng để hiện thực hoá dạng thức. Có thể mở rộng và
trau chuốt lại khái niệm về sự đồng nhất chất liệu, tuy nhiên sự trình bày phần
nào sơ lược của tôi về vấn đề cũng đã đủ để phục vụ cho những mục tiêu được giới
hạn có chủ đích của cuốn sách này.
Bây giờ ta hãy thảo luận
cái thực tế là trong nhiều ngôn ngữ tự nhiên, bao gồm cả tiếng Anh, được gọi bằng
tên chuyên môn là các ngôn ngữ phi đơn lập (non-isolating) hay tổng hợp tính (về
mặt hình thái học), từ có thể có hai hoặc hơn hai dạng thức khác biệt nhau về
ngữ pháp: so sánh man (số ít, phi sở hữu cách), man' s (số ít, sở hữu cách),
men (số nhiều, phi sở hữu cách) và men' s (số nhiều, sở hữu cách). Như đã thấy
qua bốn dạng thức của từ ‘man’, các dạng thức của một từ (hay các biểu thức
khác) phân biệt về mặt ngữ pháp – cụ thể hơn, là các dạng thức phân biệt về biến
hình của một từ – sẽ thường khác biệt nhau về chất liệu (phi đồng nhất). Nhưng
sự đồng nhất về chất liệu không phải là điều kiện cần, cũng không phải là điều
kiện đủ để đồng nhất các dạng thức về mặt ngữ pháp (và, cụ thể hơn, là đồng nhất
về biến hình). Ví dụ, dạng thức come có thể hành chức như là một trong những dạng
thức thời hiện tại của ‘come’ (they come), mà cũng có thể như là dạng thức được
truyền thống gọi tên là quá khứ phân từ của nó (they have come). Phải chăng
trong cả hai trường hợp này, ta có cùng một dạng thức come? Câu trả lời là:
theo một nghĩa nào đó thì đúng như vậy, nhưng theo một nghĩa khác thì không
đúng như vậy. Come trong they come cũng là come trong they have come theo cái
nghĩa chúng đồng nhất về mặt chất liệu (trong cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết).
Nhưng come trong they come và come trong they have come là những dạng thức biến
hình (inflectional forms) khác nhau của động từ ‘come’. Ngược lại, giả sử rằng
có một số người thuộc cùng một biến thể tiếng Anh Chuẩn lại nói (hay viết) một
cách trái khoáy là have learned trong khi những người khác nói (hay viết) have
learnt (giữa hai cách nói này còn có những biến dạng khác) thì hai cái dạng thức
learned và learnt khác biệt nhau về chất liệu này vẫn có thể được coi là đồng
nhất (hay tương đương) về mặt ngữ pháp. Nói chính xác hơn thì: (trong biến thể
tiếng Anh Chuẩn này) cùng một dạng thức ngữ pháp của từ ‘learn’ – hoặc cụ thể hơn
trong trường hợp này, là cùng một dạng thức biến hình – đã được hiện thực hoá bởi
hai dạng thức khác nhau về chất liệu (ngữ âm hoặc chữ viết).
Cuối cùng, những gì vừa
được thảo luận về các kiểu đồng nhất khác nhau trên đây sẽ rất hữu ích cho những
trình bày tiếp theo. Nó cũng củng cố cho luận điểm đã nêu ra trước đây về tầm
quan trọng phải xác lập một bộ các thuật ngữ và các quy ước trình bày, hoặc bằng
cách đặt quy định, hoặc bằng cách mở rộng, nhằm có được sự chính xác trong siêu
ngôn ngữ trình bày. Nói chung, cái nghĩa mà tôi dùng cho thuật ngữ ‘dạng thức’ ở
nhiều chỗ khác nhau trong cuốn sách này sẽ được ngữ cảnh làm rõ. Những lúc
không có được một sự rõ ràng như vậy, tôi sẽ viện đến sự khác biệt vừa nêu ra ở
đây giữa một đằng là các dạng thức được xem xét từ góc độ thành phần chất liệu
và một đằng là các dạng thức được xem xét từ góc độ chức năng ngữ pháp của
chúng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét