Linguistic Semantics:
An Introduction
Chương 1: Những mở đầu
về siêu ngôn ngữ (1)
1.1. Nghĩa của ‘nghĩa’
Theo truyền thống,
nghĩa học được định nghĩa là sự nghiên cứu nghĩa; và đây chính là định nghĩa mà
ta chấp nhận ngay từ đầu. Nhưng có phải tất cả các kiểu loại ý nghĩa đều nằm
trong phạm vi của nghĩa học, hay chỉ có một số trong chúng mà thôi? Trong ngữ cảnh
như vậy thì ‘nghĩa’ biểu thị cái gì?
Giống như nhiều từ tiếng
Anh khác, danh từ ‘nghĩa’ và động từ phái sinh ‘có nghĩa, có ý’ được dùng trong
một loạt ngữ cảnh khác nhau và với vài ý nghĩa khác biệt nhau. Lấy ví dụ trường
hợp của động từ, nếu ta nói
(1) Mary means well,
(Mary tỏ thiện ý)
ta hàm ý rằng Mary có
chủ ý tốt, rằng cô ta có ý không gây hại. Tuy nhiên, hàm ý về chủ định này tất
sẽ bị mất đi trong một phát ngôn như:
(2) That red flag means
danger.
(Lá cờ đỏ ấy biểu thị sự
nguy hiểm)
Khi nói câu này, người
ta tất không hề hàm ý rằng lá cờ có ý gây nguy hiểm cho bất kì ai; người ta
thông báo rằng lá cờ đó được dùng (thể theo một quy ước đã được xác lập trước
đó) để chỉ ra rằng có sự nguy hiểm đâu đó chung quanh nó, chẳng hạn như có một đường
nứt trên sườn đồi đầy tuyết hoặc có mìn sắp nổ ở công trường đá bên cạnh. Tương
tự với cái cách dùng động từ ‘có nghĩa’ ở trường hợp lá cờ đỏ, ít nhất là ở một
phương diện nào đó, là cách dùng nó trong phát ngôn sau:
(3) Smoke means fire.
(Có khói nghĩa là có lửa)
Trong (2) và (3) một
cái gì đó được coi là tín hiệu (sign) của một cái khác: nhờ sự hiện diện của
tín hiệu, là lá cờ hoặc khói, bất kì ai với hiểu biết cần thiết tối thiểu đều
có thể suy đoán về điều mà tín hiệu đó biểu thị (signifies), tuỳ theo trường hợp,
là sự nguy hiểm hoặc lửa.
Thế nhưng giữa (2) và
(3) lại có một khác biệt quan trọng. Trong khi khói là một tín hiệu tự nhiên
(natural) của lửa, liên hệ một cách có nguyên do với cái mà nó biểu thị, thì lá
cờ đỏ là dấu hiệu quy ước (conventional) để biểu thị sự nguy hiểm: nó là một biểu
trưng (symbol) được con người xác lập. Những sự phân biệt này, một mặt giữa cái
có chủ định và không chủ định, mặt khác giữa cái có tính tự nhiên và cái do quy
ước, hay có tính biểu trưng, từ lâu và cho đến hiện nay vẫn là trọng tâm của những
khảo cứu lí thuyết về nghĩa.
Việc động từ ‘có nghĩa,
có ý’ (‘mean’) được dùng với những nghĩa khác nhau trong phạm vi các ví dụ mà
tôi vừa dẫn ra là một điều hiển nhiên, xuất phát từ cái thực tế rằng câu:
(4) Mary means trouble
là một câu nói mơ hồ:
nó có thể được hiểu như trong (1) Mary means well (Mary tỏ thiện ý) hoặc như
trong (3) Smoke means fire (Có khói nghĩa là có lửa). Quả thật, với một ít tưởng
tượng, có thể nghĩ ra một ngữ cảnh, hay một tình huống trong đó động từ ‘có
nghĩa, có ý’ trong phát ngôn (4) Mary means trouble có thể được giải thuyết một
cách thoả đáng theo cách thường được hiểu ở (2) That red flag means danger (Lá
cờ đỏ ấy biểu thị nguy hiểm). Và ngược lại, nếu ta tạm bỏ qua những giả định có
tính bản thể (ontological assumptions) thông thường – nghĩa là những giả định của
chúng ta về thế giới – để xem lá cờ đỏ được nêu ở (2) như là một thực thể sống
có ý chí và chủ định riêng thì chúng ta cũng có thể giải thuyết phát ngôn (2) một
cách không kém thoả đáng theo cách chúng ta thường giải thuyết phát ngôn (1).
Việc giải thuyết phần lớn
các phát ngôn của ngôn ngữ, bất luận là được nói ra hay viết ra, đều phụ thuộc
– ở mức độ ít nhiều nào đó – vào ngữ cảnh trong đó chúng được sử dụng. Và cũng
không được quên rằng ngữ cảnh của phát ngôn bao gồm cả những xác tín có tính bản
thể của các bên tham gia giao tiếp: một số lớn trong số chúng được xác định
theo văn hoá và chúng, mặc dù thường được giả định mặc nhiên, vẫn có thể bị xem
xét lại hoặc bị bác bỏ. Phần lớn các phát ngôn của ngôn ngữ tự nhiên, ở dạng thực
tại hay tiềm ẩn, đều có nhiều nghĩa, hay nhiều cách giải thuyết hơn so với suy
nghĩ ban đầu mà chúng ta dành cho chúng khi xem xét chúng tách rời khỏi ngữ cảnh.
Đây là một điểm không phải bao giờ cũng được các nhà nghĩa học quan tâm đúng mức.
Xét theo khía cạnh này,
các phát ngôn chứa động từ ‘có nghĩa, có ý’ (hoặc danh từ ‘nghĩa’) không khác
gì so với các phát ngôn khác trong tiếng Anh. Và điều quan trọng cần nhớ là,
xét ở các khía cạnh khác, động từ ‘có nghĩa, có ý’ và danh từ ‘nghĩa’ cũng chỉ
là các từ bình thường của tiếng Anh. Không cần thiết phải cho rằng tất cả các
ngôn ngữ tự nhiên, trong vốn từ vựng hàng ngày của chúng, đều có những từ tương
ứng một cách chính xác với động từ ‘có nghĩa, có ý’ và danh từ ‘nghĩa’ cả về mặt
ngữ pháp lẫn ngữ nghĩa. Đây là điểm thứ hai đặc biệt cần nhấn mạnh và tôi sẽ trở
lại với nó sau (mục 1.2).
Bây giờ chúng ta hãy
xét một nghĩa hệ thống (hoặc nghĩa) khác của động từ ‘có nghĩa, có ý’. Nếu ta
nói:
(5) ‘Soporific’ means “
tending to produce sleep”.
(‘Gây ngủ’ có nghĩa là
“làm cho ngủ”)
thì hiển nhiên là ta
không hề gán ép sự chủ định nào cho cái từ tiếng Anh ‘soporific’. Tuy nhiên, có
thể cho rằng có một mối liên hệ mang tính bản chất, mặc dù là gián tiếp, giữa
những gì mà người ta biểu thị hoặc chủ định biểu thị, với những gì được gán một
cách quy ước cho các từ mà họ sử dụng. Luận điểm này được các nhà triết học
ngôn ngữ thảo luận rất nhiều. Bởi vì nó không quan yếu đối với những quan tâm
chính của cuốn sách này nên tôi không bàn đến ở đây. Tôi cũng không bàn đến một
luận điểm liên quan, là cũng tồn tại một mối liên hệ bản chất, và có thể là trực
tiếp hơn, giữa những gì mà người ta muốn bày tỏ và những gì người ta chủ định
bày tỏ. Mặt khác, trong Chương 8 và Chương 9, tôi sẽ đưa ra một cách trình bày
cụ thể về sự khác biệt giữa việc nói ra điều mà ta muốn nói và việc hiểu điều
mà ta nói – đây là một phân biệt khác đã được tranh luận rộng rãi trong triết học
ngôn ngữ.
Tính chủ định chắc chắn
đóng một vai trò quan trọng trong bất kì học thuyết nào người ta có thể nêu ra
về nghĩa của phát ngôn, cho dù nó không phải là đặc tính của các từ tạo nên
phát ngôn. Tạm thời, ta hãy đơn giản lưu ý rằng chính cái nghĩa của động từ “có
nghĩa, có ý” được nêu ví dụ ở (5) chứ không phải cái ý nghĩa được nêu ở ví dụ
(6):
(6) Mary didn’t really
mean what she said.
(Mary đã thật sự không
nghĩ như điều cô ấy nói)
mới là cái nghĩa được
quan tâm trực tiếp hơn trong ngôn ngữ học.
Ta vừa lưu ý rằng danh
từ ‘nghĩa’ (và động từ tương ứng ‘có nghĩa, có ý’) là có nhiều nghĩa. Nhưng luận
điểm chính tôi muốn nói trong mục này không phải là về tính đa nghĩa, hay đa
nghĩa hệ thống, của từ này, mà là việc những nghĩa này có liên quan với nhau và
ảnh hưởng lẫn nhau theo nhiều cách. Điều này giải thích tại sao việc nghiên cứu
cái đối tượng được xem là nghĩa (theo một nghĩa này hay nghĩa khác của từ tiếng
Anh ‘meaning’) lại là mối quan tâm của nhiều ngành và không hề là lãnh địa
riêng của ngành nào. Theo đó, nếu nghĩa học được định nghĩa là sự nghiên cứu về
ý nghĩa thì sẽ có nhiều phân nhánh khác nhau nhưng giao nhau của nghĩa học:
nghĩa học triết lí, nghĩa học tâm lí, nghĩa học nhân chủng, nghĩa học lô-gic,
ngữ nghĩa học v.v.
Chính ngữ nghĩa học
(linguistic semantics) là đối tượng mà ta chủ yếu quan tâm trong cuốn sách này;
và mỗi khi tôi sử dụng thuật ngữ ‘nghĩa học’ mà không có thêm định ngữ nào thì
nó sẽ được hiểu với nghĩa hẹp hơn, để chỉ ngữ nghĩa học. Tương tự, mỗi khi tôi
dùng thuật ngữ ‘ngôn ngữ’ không kèm theo định ngữ nào thì nó sẽ được hiểu là
dùng để chỉ cái thường được gọi là ngôn ngữ tự nhiên (natural languages). Nhưng
ngữ nghĩa học là gì và nó phân biệt với nghĩa học phi ngôn ngữ ra sao? Và cái gọi
là ngôn ngữ tự nhiên thì phân biệt với các loại ngôn ngữ khác như thế nào về phương
diện nghĩa cũng như các phương diện khác? Đây là những câu hỏi mà ta sẽ bàn đến
trong mục 1.3. Nhưng trước hết, cần nói đôi điều về hệ thuật ngữ, cách thức sử
dụng, và chung hơn, là về siêu ngôn ngữ (metalanguage) có tính chuyên môn và
không chuyên môn của ngữ nghĩa học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét