Share to be shared !

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2013

Chương 8: Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung • Dẫn nhập • Phát ngôn • Hành động tạo lời • Lực ngôn trung • Nhận định, hỏi và cầu khiến

Linguistic Semantics: An Introduction
Chương 8: Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung

    • Dẫn nhập • Phát ngôn • Hành động tạo lời • Lực ngôn trung • Nhận định, hỏi và cầu khiến

8.0. Dẫn nhập

Đến đây, chúng ta chưa thật sự khai thác sự khác biệt về mặt thuật ngữ, đã được nêu ra trong chương 1, giữa ‘câu’ và ‘phát ngôn’. Chúng ta cũng chưa làm rõ sự khác biệt có liên quan giữa cái mà Saussure gọi là ‘ngôn ngữ’ và ‘lời nói’, còn Chomsky thì gọi là ‘ngữ năng’ và ‘ngữ thi’, vốn là những khái niệm, như chúng ta đã thấy trong chương 1, cần được trình bày lại, với tư cách là những sự lưỡng phân không tương đương với nhau trong khuôn khổ tam phân hệ thống-quá trình-thành phẩm, nếu như chúng ta muốn tránh những ngộ nhận được gán cho sự phân biệt các thuật ngữ này trong hầu hết các sách giáo khoa.

Phần lớn những nghiên cứu trong nghĩa học hình thức (trong chừng mực nó được áp dụng để phân tích ngôn ngữ tự nhiên) đã dựa trên quan điểm cho rằng ngôn ngữ là tập hợp các câu, và các câu được dùng chủ yếu là, nếu không nói chỉ duy nhất, nhằm vào mục đích miêu tả. Do đó, nghĩa học hình thức thường không quan tâm đến sự khác biệt giữa ngữ nghĩa của câu và nội dung mệnh đề (tức nội dung miêu tả). Đây rõ ràng là một quan điểm rất hạn hẹp về bản chất ngôn ngữ (như chúng ta đã thấy ở chương 6) và về ngữ nghĩa của câu. Quan điểm này đã bị chỉ trích rất nhiều.

Một trong những người chỉ trích có ảnh hưởng nhất trong những năm gần đây là nhà triết học J.L Austin (1911–60) ở Đại học Oxford, người có những tư trưởng được tranh luận rất nhiều, không chỉ trong giới triết học mà còn cả trong giới ngôn ngữ học (và những đại biểu của nhiều ngành khoa học khác). Trong chương này, chúng ta sẽ sử dụng cái được gọi là lí thuyết hành động ngôn từ của Austin như là xuất phát điểm để phân tích nghĩa của phát ngôn trong các chương 9 và 10 tiếp theo.


8.1. Phát ngôn

Như đã chỉ ra ở chương 1, thuật ngữ ‘phát ngôn’ mơ hồ giữa nghĩa quá trình và nghĩa ngôn phẩm (mục 1.6). (Ở đây từ ‘quá trình’ được dùng với nghĩa rộng hơn ‘hành động’ hay ‘hoạt động’: hành động là quá trình có chủ thể kiểm soát; còn hành vi (act) là đơn vị của hành động hay hoạt động). Thuật ngữ ‘phát ngôn’ có thể được dùng để chỉ hoặc chính quá trình (hoặc hoạt động) phát ngôn ra câu nói hoặc chính sản phẩm của quá trình (hoặc hoạt động) ấy. Phát ngôn, theo cách hiểu thứ nhất, hiện nay được dùng để chỉ các hành động ngôn từ; còn theo cách hiểu thứ hai thì có thể dùng để chỉ các phát-ngôn-thành-phẩm (inscriptions), theo một nghĩa đặc biệt của thuật ngữ này. (Thuật ngữ phát-ngôn-thành-phẩm, được nêu ra ở chương 1, không được giới ngôn ngữ học dùng một cách rộng rãi. Nó không nên được xem là phù hợp với ngôn ngữ viết hơn so với ngôn ngữ nói). Trong chương này, một trong những mục đích chính của tôi là làm rõ mối quan hệ giữa các hành động ngôn từ với các phát-ngôn-thành-phẩm và đồng thời với nó là làm rõ hơn sự khác biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn. Trong chừng mực có thể được, tôi sẽ thao tác với các thuật ngữ và khái niệm được lấy ra từ tác phẩm của J.L Austin, hiện đang được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ học và các khoa học có liên quan. Nhưng tôi thấy cần bổ sung một hoặc hai sự phân biệt của riêng tôi, nhằm làm chính xác hơn những gì mà Austin và các môn đệ đã làm về mối quan hệ phức tạp giữa các hành động ngôn từ và câu. Tôi cũng sẽ nêu thảo luận những điểm chưa được chú ý đúng mức trong phạm vi có thể gọi là truyền thống Anh-Mĩ, nếu so với việc xử lí chúng trong truyền thống Pháp điển hình, vốn bắt nguồn từ nghiên cứu của Emile Benveniste (1966, 1974).

Thuật ngữ ‘hành động ngôn từ’ có thể gây hiểu nhầm. Trước hết, nó dễ bị coi là đồng nghĩa với ‘hành động phát ngôn ra câu nói’ hơn là để biểu thị, như nó đã biểu thị (theo cái nghĩa mà nó được các nhà ngôn ngữ học sử dụng), một bộ phận cụ thể nào đó của sản phẩm nói năng. Thứ hai, nó quá nhấn mạnh vào cái bộ phận của sản phẩm nói năng ở khía cạnh là phương tiện ghi lại âm thanh. Tuy nhiên, bởi thuật ngữ ‘hành động ngôn từ’ hiện nay được dùng quá phổ biến, trong ngôn ngữ học và trong triết học, theo nghĩa chuyên môn mà Austin và cụ thể hơn, là J.R Searle đã cấp cho nó, tôi sẽ không tìm cách thay thế nó bằng một thuật ngữ khác thích hợp hơn. Có điều, cần phải nhấn mạnh rằng: (i) thuật ngữ ‘hành động ngôn từ’ được dùng nhất quán theo một nghĩa rất chuyên môn hoá; và (ii) thuật ngữ này, một mặt, giống như thuật ngữ ‘phát ngôn’, và mặt khác, giống như các thuật ngữ ‘phát-ngôn-thành-phẩm’ hay ‘ngôn bản’, được dùng để chỉ sản phẩm của ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết. Tất cả những gì được nêu trong chương này (và xuyên suốt cuốn sách) đều được định hướng nhất quán với những gì đã được nói ở chương 1, một mặt là về ngữ năng và ngữ thi, và mặt khác, là về hệ thống ngôn ngữ, về việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ, về sản phẩm của việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ đó và sẽ tỏ ra trung tính đối với một số khác biệt hiện được coi là đặc trưng để phân biệt trường phái ngôn ngữ học này với trường phái ngôn ngữ học khác. Chẳng hạn, nó trung tính giữa cách tiếp cận tạo sinh luận và phi tạo sinh luận đối với việc phân tích ngôn ngữ và đối với ngôn ngữ, giữa tri nhận luận (cognitivism) và phản tri nhận luận (anti-cognitivism), giữa chức năng luận và phản chức năng luận, giữa hình thức luận và phản hình thức luận. Thiết thực hơn, sự trình bày của tôi về những gì được gọi là lí thuyết hành động ngôn từ là nhằm đưa ra một cơ sở triết học cần yếu hơn so với những gì thường được nêu trong các sách giáo khoa ngôn ngữ học.

Bản thân Austin chưa hề trình bày lí thuyết được phát triển đầy đủ về các hành động ngôn từ. Di cảo cuối cùng là tập thuyết trình William James ông đọc ở Harvard vào năm 1955 và sau khi ông chết, được công bố với tên gọi How to do things with words (Nói là hành động) (1962). Trước đó, ở Đại học Oxford, trong một số năm, ông cũng đã thuyết trình chính đề tài đó và vào năm 1940, đã sớm có những bài viết có liên quan, nhưng về tập bài giảng William James của mình, ông đã không để lại bản thảo được sửa chữa đầy đủ và có thể công bố. Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi chẳng hề có phiên bản được nhất trí và xác định nào về lí thuyết của ông. Sự thật, người ta không rõ ngay cả việc Austin có cố gắng xây dựng một lí thuyết về các hành động ngôn từ theo cách hiểu thuật ngữ ‘lí thuyết’ mà những người người theo tư tưởng của ông đã hiểu hay không. Ông là người thuộc về trường phái được gọi là trường phái triết học ngôn ngữ đời thường, mà thành viên của nó là những người có xu hướng hoài nghi chủ nghĩa hình thức và hoài nghi việc có thể vạch ra những phân biệt rạch ròi.

Mục tiêu chính của Austin, ít nhất ở buổi ban đầu, là xem xét lại điều mà ông nhìn nhận như là nguỵ thuyết miêu tả: quan điểm cho rằng chức năng của ngôn ngữ được quan tâm duy nhất về mặt triết học là chức năng xây dựng những phán đoán đúng hay sai. Cụ thể hơn, ông tấn công vào thuyết thẩm định chân thực, có liên quan đến thực chứng luận lô gích, tức cái thuyết cho rằng các câu chỉ có nghĩa khi chúng biểu thị những mệnh đề có thể kiểm tra được tính đúng hay sai. Chúng ta đã xem xét thẩm định luận (verificationism) khi nói về khái niệm khái niệm điều kiện chân thực (xem mục 5.4). Như chúng ta đã thấy, khi Austin đầu tiên quan tâm đến vấn đề này, những người theo thẩm định luận đã phải đối mặt với sự chỉ trích rằng tiêu chí về tính có nghĩa của họ đã loại trừ, không phải chỉ những cái được gọi là giả phán đoán của thần học hay siêu hình học, mà còn cả những phán đoán thuộc đạo đức học và mĩ học. Một sự đáp trả lại đối với chỉ trích này, nó sẽ được nhắc lại, là thừa nhận những câu như:

Tục ăn thịt người là sai lầm’

hoặc

Monet là hoạ sĩ tài năng hơn Manet’

không thể được dùng để biểu thị các phán đoán mang tính miêu tả, mà chỉ có thể được dùng để biểu cảm, tức biểu thị những cảm nhận của con người (xem mục 5.5).

Hoặc có thể cho rằng, mặc dù những câu như vậy có thể được dùng để biểu thị các phán đoán đúng hoặc sai thì cái mà người nói biểu thị, khi nói những câu đó, là những thái độ của riêng họ hoặc của ai đó hơn là hiện thực khách quan. Trong các bài viết tương đối sớm của mình, Austin đã phê phán cách hiểu thứ hai này. Sau đó, ông đã chỉ ra rằng trong số những phát ngôn thường ngày của chúng ta, số phát ngôn giả phán đoán là nhiều hơn so với số được thừa nhận bởi những người theo thẩm định luận hoặc những người chống đối họ. Ví dụ, theo Austin, nếu ta phát ngôn câu:

Tôi hứa trả anh/chị 5 Bảng’

với mục đích là hứa (và báo cho người nghe biết là ta đang tạo ra một lời hứa), thì ta không phải là đang nói điều gì đó, có thể đúng hoặc sai, do ta nhận thức được mà chính là ta cam kết thực hiện một hành động cụ thể.

Đây, tóm lại, là bối cảnh triết học trong đó Austin lần đầu tiên nêu ra sự phân biệt mà nay rất nổi tiếng giữa phát ngôn tường thuật (constative) và phát ngôn ngôn hành (performative). Theo định nghĩa, phát ngôn tường thuật là phát ngôn nêu nhận định. (Austin thích dùng ‘tường thuật’ hơn là ‘miêu tả’, bởi vì ông cho rằng không phải tất cả những nhận định đúng hoặc sai đều là các phát ngôn miêu tả. Để giản tiện cho việc trình bày ở đây, hai thuật ngữ này sẽ được xem là tương đương). Phát ngôn ngôn hành, trái lại, là những phát ngôn mà khi nói ra chúng, người nói hay người viết chính là đã làm một điều gì đấy hơn là nói một điều gì đấy.

Sự phân biệt giữa nói và làm này (được phản ánh trong tiêu đề bài giảng của Austin ở Oxford là ‘Ngôn từ và hành động’) cuối cùng đã bị từ bỏ. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa phát ngôn tường thuật và phát ngôn phi tường thuật, như trên đây, thì vẫn được giữ lại. Điều đơn giản là, trong phiên bản muộn nhất mà chúng ta có về tác phẩm của Austin, các phát ngôn tường thuật chỉ được xem như là một loại phát ngôn ngôn hành. Tương tự, nói (saying), trong cái nghĩa nêu nhận định, hay xác nhận của động từ ‘nói’, cái nghĩa mà theo đó ta nói một điều gì đó đúng hay sai, sẽ được xem như là một kiểu hành động đặc biệt. Và như chúng ta sẽ thấy, Austin đã xem xét một cách khá chi tiết vấn đề nói và làm. Thực tế, đây là những gì mà lí thuyết hành động ngôn từ của Austin, trong chừng mực nó là một lí thuyết, quan tâm xem xét. Đó là một lí thuyết về dụng học (theo cái nghĩa từ nguyên của thuật ngữ ‘ngữ dụng’, là sự nghiên cứu về hành động).

Hơn thế nữa (mặc dù Austin không phát triển những vấn đề có liên quan của quan điểm này), đó là một lí thuyết dụng học mang tính xã hội: lí thuyết cho rằng nói là hành động trong khuôn khổ những thiết chế và những quy ước xã hội đã được giả định và chấp thuận bởi các thành viên (hay những người tham gia tương tác). Khía cạnh này trong lí thuyết của Austin không phải bao giờ cũng được nhấn mạnh một cách tương xứng.

Sự phân biệt thứ hai mà Austin nêu ra là giữa phát ngôn ngôn hành tường minh và phát ngôn ngôn hành nguyên cấp. Về nguyên tắc, sự phân biệt này áp dụng cho cả phát ngôn tường thuật lẫn phi tường thuật. Ở đây, chỉ cần nói rằng phát ngôn ngôn hành tường minh là dạng mà phát-ngôn-thành-phẩm có chứa những từ ngữ dùng để biểu thị hoặc, bằng một cách nào đó khác, chỉ rõ loại hành động được thực hiện. Định nghĩa này cần được trau chuốt lại ở một vài phương diện. Để nguyên như vậy, nội dung của nó có thể rộng hơn so với dự định của Austin, nhưng lại hẹp hơn mức cần phải có. Nhưng chắc hẳn là nó bao quát tất cả những ví dụ mà Austin và những người theo ông đã dùng để minh hoạ cho loại phát ngôn ngôn hành. Đặc biệt, nó bao quát được các phát ngôn phi tường thuật của những câu như (3). Những câu như vậy có chứa một động từ gọi là động từ ngôn hành, và chính sự hiện diện của động từ này, ở đây là động từ ‘hứa’, ở dạng thức trực thuyết, thì hiện tại đơn giản, cùng với chủ ngữ ở ngôi thứ nhất số ít, sẽ chỉ rõ bản chất của cái hành động ngôn từ được thực hiện khi câu đó được nói ra để hứa.

Tất nhiên, người ta có thể hứa mà không cần dùng một phát ngôn ngôn hành tường minh như vậy. Ví dụ, ta có thể hứa bằng cách nói:

Tôi sẽ trả anh/chị 5 Bảng’

Trong trường hợp này, ta đã dùng một phát ngôn mà Austin gọi là ngôn hành nguyên cấp (tức không tường minh). Xét theo định nghĩa được nêu trên đây, phát ngôn này là ngôn hành không tường minh, bởi lẽ tự thân phát-ngôn-thành-phẩm không chứa từ ngữ nào chỉ ra rằng nó là một lời hứa chứ không phải là dự báo hay nhận định.

Đó có thể xem là một sự trình bày đủ, mặc dù không chính thức và phần nào chưa chính xác, về những gì mà Austin suy nghĩ khi ông nêu ra sự khác biệt giữa phát ngôn ngôn hành tường minh và nguyên cấp. Cần lưu ý rằng chính các phát ngôn, chứ không phải là các câu, được phân chia thành tường thuật hoặc phi tường thuật, ngôn hành tường minh hoặc không tường minh. Khi các nhà ngôn ngữ dùng thuật ngữ ‘câu ngôn hành’, họ thường viện đến các câu như ‘Tôi hứa trả anh/chị 5 Bảng’, vốn chứa một động từ được gọi là ngôn hành và thường được nói ra với tư cách là những phát ngôn phi tường thuật tường minh.

Như những gì đã được nói về câu trần thuật và phi trần thuật ở chương 6 chỉ rõ, câu (4) là câu trần thuật, bởi lẽ nó thuộc về một loại câu mà các thành viên điển hình được dùng một cách đặc trưng để nêu nhận định. Ở điểm này, cần nhấn mạnh rằng nói như vậy không có nghĩa là mỗi thành viên hoặc bất kì tiểu lớp nào của loại câu này đều chỉ được dùng thông thường với mục đích đó. Cho dù (3) thậm chí không bao giờ được dùng để nêu nhận định mà chỉ để hứa hẹn, nó vẫn là một câu trần thuật bởi cấu trúc ngữ pháp của nó. Và (3) tất nhiên có thể được dùng (trong tiếng Anh chuẩn hiện nay) để nêu các loại nhận định khác nhau. Không cần thiết phải nhắc đi nhắc lại điều này ở đây. Nhưng nó cần phải được lưu tâm trong suốt chương này.

Trong phần tiếp theo, tôi sẽ dùng một số thuật ngữ của Austin. Nhưng không phải bao giờ tôi cũng giải thuyết chúng một cách hoàn toàn giống như Austin. Ở một vài trường hợp, cách giải thuyết của Austin không được rõ ràng, ở những trường hợp khác thì đủ rõ nhưng lại gây tranh cãi. Vấn đề đáng nói hơn là quan niệm của Austin về sự phân biệt giữa câu và phát ngôn là rất khác với quan niệm mà tôi chấp nhận trong sách này. Vì vậy, tôi sẽ giải thích lại lí thuyết hành động ngôn từ của Austin dưới ánh sáng của sự phân biệt này.



8.2. Hành động tạo lời

Cái mà Austin gọi là hành động tạo lời chính là việc tạo ra một phát ngôn (tức phát-ngôn-thành-phẩm) với một dạng thức cụ thể và một ý nghĩa ít nhiều xác định.

Nhiều phát ngôn mà chúng ta dùng trong hội thoại hàng ngày, tức phần lớn các sản phẩm của hành động tạo lời, là sai ngữ pháp (ungrammatical); một số thì đúng ngữ pháp nhưng bị tỉnh lược (như: Ở đây lâu chưa?, Mùa đẹp trời của cả năm v.v...); một số thì vừa không đúng ngữ pháp lại vừa không sai ngữ pháp; một số khác, tất nhiên, vừa không đúng ngữ pháp vừa bất khả chấp, hậu quả của cái gọi là lỗi thể hiện: do sơ ý, nhớ nhầm hoặc những trục trặc này nọ trong việc tạo ra các tín hiệu ngôn ngữ.

Bởi lúc này chúng ta chủ ý giới hạn sự quan tâm đến các phát ngôn đúng ngữ pháp và không tỉnh lược nên chúng ta tạm thời tránh một loạt những phức tạp mà việc thảo luận đầy đủ hơn về các hành động tạo lời đòi hỏi. Đặc biệt, chúng ta tạm giả định rằng thực hiện một hành động tạo lời tất nhiên phải là phát ngôn ra câu nói. Tuy nhiên, ở điểm này, cần lưu ý một điều quan trọng là người ta có thể phát ngôn ra cùng một câu mà không nhất thiết phải nói cùng một nội dung, và họ có thể nói cùng một nội dung mà không nhất thiết phải phát ngôn ra cùng một câu.

Trong thực tế, có nhiều cách người ta có thể hiểu cụm từ được dùng hàng ngày ‘nói giống nhau’. Lí thuyết hành động ngôn từ của Austin có thể được xem như là lí thuyết dành cho vấn đề này và giải thích (một phần nào) một vài ý nghĩa của động từ ‘nói’, theo đó nói là hành động. Chúng ta hãy bắt đầu với nhận xét rằng câu sau đây là mơ hồ, thể theo cái cách động từ ‘nói’ được dùng với nghĩa “xác nhận” hay “nói ra”:

John và Mary nói giống nhau’.

Theo một cách hiểu, sự giống nhau đó là giống nhau về các điều kiện chân thực và do đó, là biểu thị cùng một nội dung mệnh đề, như trong:

John và Mary cùng xác nhận một mệnh đề’

Theo cách hiểu khác, câu trên đây có thể được khúc giải, theo siêu ngôn ngữ chuyên môn mà chúng ta đã kiến tạo, như là:

John và Mary tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm’.

Cũng cần thấy rằng, mặc dầu từ ‘điều nói ra’ thường không bị coi là mơ hồ, vẫn có một khác biệt nổi bật và quan trọng về mặt lí thuyết giữa các kiểu loại ‘điều nói ra’. Các mệnh đề, như chúng ta đã thấy, là những thực thể trừu tượng thuộc một kiểu loại đặc biệt. Trong khi đó, các phát-ngôn-thành-phẩm lại có những đặc tính vật lí, có thể được xác định bằng giác quan này hay khác: nghe, nhìn, sờ mó v.v...

Từ những gì đã nói trong những chương trước, rõ ràng là ta có thể xác nhận cùng một mệnh đề bằng cách nói ra những câu khác nhau. Ý này bây giờ có thể cần được làm rõ thêm. Thứ nhất, cùng một mệnh đề có thể được xác nhận (cho phép chúng ta giả định) bằng cách nói ra các câu trong những ngôn ngữ khác nhau, ví dụ, cùng một nội dung mệnh đề ‘Trời mưa’ có thể nói:

It is raining’ (tiếng Anh),

Il pleut’ (tiếng Pháp),

(10)‘Es regnet’ (tiếng Đức).

Thứ hai, cũng có thể xác nhận cùng một nội dung mệnh đề bằng cách nói ra hai câu trong cùng một ngôn ngữ, chẳng hạn dùng các câu chủ động và bị động tương đương, ví dụ như:

(11) ‘Con chó cắn người đưa thư


Người đưa thư bị con chó cắn’.

Ngược lại, như chúng ta đã thấy ở chương 7, người ta có thể xác nhận những mệnh đề khác nhau bằng cách nói ra cùng một câu trong những ngữ cảnh khác nhau và bằng cách gán những giá trị khác nhau cho các biểu thức quy chiếu trong câu đó. Ví dụ,

Bạn tôi đang đợi tôi’

biểu thị vô số những mệnh đề khác nhau tuỳ thuộc vào giá trị được gán cho ‘bạn tôi’, ‘tôi’ và cái thời gian được quy chiếu bởi thì của động từ. Và như vậy, chúng ta đã thấy rằng có một sự phân biệt quan trọng được nêu ra giữa việc phát ngôn ra câu và việc xác nhận mệnh đề.

Cũng có một sự phân biệt được nêu ra giữa việc phát ngôn ra câu và tạo ra các phát-ngôn-thành-phẩm. Điều này có thể được thấy qua vài ví dụ đơn giản. Chúng ta giả định rằng John nói:

I’ll meet you at the bank

Và Mary nói:

I’ll meet you at the bank

Hoặc, một lần nữa, chúng ta giả định là cả hai cùng nói:

Flying planes can be dangerous.

Chắc chắn chúng ta có thể đồng ý rằng theo một cách hiểu nghĩa của động từ ‘nói’, ở mỗi ví dụ, John và Mary đều nói giống nhau: họ đã tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm. Chính xác hơn (như chúng ta sẽ thấy ngay sau đây) họ đã tạo ra các hiện dạng (tokens) của cùng một kiểu loại phát ngôn. Chúng ta cũng hãy đồng ý rằng, ở mỗi trường hợp, cái mà họ nói ra là câu. Nhưng có phải cả hai đã nói ra cùng một câu không?

Điều quan trọng là thấy rằng chúng ta không thể trả lời được câu hỏi này nếu không biết những dạng thức nào đã được nói ra cũng như những cụm từ nào đã được họ tạo nên. Nếu bank trong phát ngôn của John là một dạng thức của ‘bank 1’ (nghĩa là “ngân hàng”) còn bank trong phát ngôn của Mary là một dạng thức của ‘bank 2’ (nghĩa là “sườn dốc của một con sông”) thì họ đã nói ra những câu khác nhau. Tương tự, nếu flying trong phát ngôn của John là một dạng thức của động từ nội động ‘fly’ (bay) (do đó ‘flying planes’ có nghĩa nôm na là “những máy bay đang bay”) còn flying trong phát ngôn của Mary là một dạng thức của động từ ngoại động tương ứng ‘fly’ (lái) (do đó ‘flying planes’ có nghĩa nôm na là “lái máy bay”) thì họ, một lần nữa, đã nói những câu khác nhau. Đáng tiếc là tồn tại quá nhiều lẫn lộn trong các văn liệu có liên quan đến điều vừa nói trên đây, do chỗ ngay từ đầu, câu đã được những nhà ngữ pháp tạo sinh định nghĩa (một cách không truyền thống) như là một chuỗi các dạng thức, vốn có thể hoặc không có cùng cấu trúc ngữ pháp. Ở đây và xuyên suốt cuốn sách này, tôi đã chấp nhận một quan niệm có tính truyền thống hơn về câu.

Sự thể rằng người ta có thể tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm mà không phát ngôn ra cùng một câu là một điểm khuất lấp trong rất nhiều công trình gần đây về ngữ nghĩa học và ngữ dụng học, do chỗ các thuật ngữ ‘câu’ và ‘phát ngôn’ được dùng một cách lỏng lẻo. Ta có thể đồng ý rằng Austin cũng là người thất bại trong cố gắng vạch ra một sự phân biệt đủ sắc nét giữa câu và phát ngôn. Nhưng ông chắc chắn đã lưu ý đến điều vừa được minh hoạ; và ông đã có sự hiểu biết sâu sắc hơn về mối quan hệ phức tạp giữa câu và phát ngôn so với những gì mà nhiều môn đệ hình như đã hiểu. Bởi sự phân tích của ông về các hành động tạo lời, mặc dù về một vài phương diện là không được rõ và ở một số phương diện khác là khiếm khuyết về kĩ thuật, nhưng rõ ràng đã dựa trên sự thừa nhận rằng các phát ngôn đồng nhất về mặt ngữ âm có thể khác nhau xét theo các từ ngữ thành tố và cấu trúc ngữ pháp của chúng.

Điều này dẫn chúng ta đến một luận điểm bổ sung: sự đồng nhất về ngữ âm không phải là điều kiện tất yếu để đồng nhất các phát ngôn. Nếu chúng ta yêu cầu Mary nhắc lại phát ngôn của John ở (14), chúng ta không mong gì cô ta bắt chước được chất giọng của anh ta hoặc tái tạo lại những đặc trưng kèm lời như nhịp điệu, tiết tấu. Chúng ta thậm chí cũng không mong cô ta nhại lại giọng của John, mặc dù nó có thể rất khác với giọng của cô ta. Chẳng hạn, nếu John là người Luân Đôn thuộc tầng lớp công nhân với giọng Cockey, còn Mary là một quý bà tầng lớp trên vùng New England thì họ sẽ phát âm câu ‘I’ll meet you at the bank’ cũng như hầu hết các phát ngôn tiềm tàng khác của tiếng Anh theo những cách khác nhau. Thế nhưng trong nhiều trường hợp, nếu không nói là tất cả, các cặp phát-ngôn-thành-phẩm khác biệt nhau về ngữ âm sẽ được người bản ngữ xác định như là các hiện dạng (tokens) của cùng một điển dạng (type).

Điều này cho thấy sự đồng nhất ngữ âm không phải là điều kiện tất yếu cho việc đồng nhất điển dạng/hiện dạng của các phát-ngôn-thành-phẩm. Nó cũng minh chứng một điều rằng sự đồng nhất điển dạng/hiện dạng của phát ngôn, trong chừng mực nào đó, là độc lập đối với lí thuyết: nó có thể được xác lập trong những ví dụ cụ thể mà không cần tham chiếu đến những lí thuyết này nọ về cấu trúc ngôn ngữ. Nhưng sự độc lập về lí thuyết, theo cái nghĩa này, sẽ không còn nữa nếu tính đến đường nét ngữ điệu của phát ngôn. Trong cuộc sống hàng ngày, đơn giản là ta không rõ liệu hai cách phát âm phân biệt về ngữ điệu của câu ‘I’ll meet you at the bank’ có được xem là chỉ hiệu của cùng một kiểu loại hay không. Trong cả hai trường hợp đều có chỗ để tranh luận liệu sự trọng âm và ngữ điệu có quan yếu hay không. Tuy nhiên, để đơn giản việc trình bày, ở đây tôi sẽ theo quan điểm cho rằng để hai người có thể tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm, chỉ cần họ phát ngôn những gì mà họ và những người khác thừa nhận là cùng một chuỗi các dạng thức, bất luận đường viền ngữ điệu và mô hình trọng âm trùm lên nó. Và tôi cũng sẽ theo quan điểm này khi xem xét câu .

Ví dụ, nếu John nói:

It’s raining.

(Trời đang mưa)

với ngữ điệu đi xuống và mô hình trọng âm trung hoà, trong khi Mary nói:

It’s raining.

(Trời đang mưa)

với trọng âm nhấn mạnh và ngữ điệu đi lên ở dạng thức raining (mưa), tôi sẽ cho rằng họ không những đã tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm mà còn đã nói ra cùng một câu:

(19) ‘It’s raining’

Tôi cũng xem sự tương phản it is đối với it’s và tất cả những hiện tượng tương tự là không quan yếu đối với việc đồng nhất điển dạng/hiện dạng các phát-ngôn-thành-phẩm. Đây không phải là vấn đề gì to tát về mặt lí thuyết và phương pháp luận. Nhiều nhà ngôn ngữ học có thể không đồng ý, trên cơ sở lí thuyết, với quan điểm mà tôi lựa chọn ở đây. Nhưng đến nay đã có một vài người quan tâm nghiêm túc đến vấn đề này; và rất nhiều điểm thoạt nhìn tưởng như là bất đồng thật sự hoá ra có thể chỉ là bất đồng thuần tuý về thuật ngữ.

Bây giờ chúng ta có thể chia việc thực hiện một hành động tạo lời ra làm hai phần độc lập về lô gich: (i) sự tạo ra phát-ngôn-thành-phẩm theo một số phương tiện vật chất thích hợp; và (ii) sự cấu tạo nên một câu như thế nào đó. Chúng độc lập với nhau về mặt lô gich, bởi lẽ cùng một phát-ngôn-thành-phẩm có thể ứng với hai hoặc nhiều hơn các câu khá khác nhau và ngược lại, cùng một câu có thể ứng với hai hoặc nhiều hơn các phát-ngôn-thành-phẩm khá khác nhau. Sử dụng các thuật ngữ của Austin, chúng ta có thể nói rằng hành động tạo lời là sản phẩm của (i) một hành động ngữ âm (phonic act) để tạo ra một phát-ngôn-thành-phẩm (trong chất liệu âm thanh); và (ii) một hành động ngữ vựng (phatic act) để kiến tạo nên một câu cụ thể trong một ngôn ngữ cụ thể. Hành động đầu tiên trong số hai hành động này tất nhiên phụ thuộc vào việc sử dụng phương tiện là chất liệu này hay chất liệu khác. Việc tạo ra các phát ngôn bằng những chất liệu phi âm thanh, chủ yếu khi ta viết chứ không phải nói, sẽ liên quan đến các hành động phi cấu âm này hay khác. Như tôi đã nói từ đầu, thuật ngữ ‘hành động ngôn từ’ lẽ ra không nên được hiểu như là chỉ áp dụng cho việc tạo ra các phát ngôn lời nói. Điều này cũng đúng đối với thuật ngữ ‘hành động tạo lời’.

Chúng ta vẫn chưa kết thúc việc phân tích các hành động tạo lời; chúng ta vẫn còn phải tính đến sự thể là các câu được nói ra trong những ngữ cảnh cụ thể và một phần ý nghĩa của phát-ngôn-thành-phẩm có được là phái sinh từ cái ngữ cảnh mà ở đó nó được hiện thực hoá. Đây chủ yếu là nói về sở chỉ của các biểu thức quy chiếu được dùng trong phát ngôn; và sở chỉ, như chúng ta đã thấy ở Phần 3, là một phần ý nghĩa của phát ngôn chứ không phải của câu. Thành tố thứ ba của hành động tạo lời, vốn bao gồm sự gán định sở chỉ và có thể được miêu tả một cách khái quát hơn như là quá trình ngữ cảnh hoá (contextualization) được Austin gọi là hành động ngữ chiếu (rhetic act).

Tôi sẽ không tiếp tục dùng các thuật ngữ ‘ngữ âm’, ‘ngữ vựng’, và ‘ngữ chiếu’ của Austin. Chúng không được dùng rộng rãi trong các tài liệu ngôn ngữ học và trong bất kì tình huống nào, tôi cũng đã hiểu chúng có phần khác so với Austin. Điều quan trọng chính là bản thân sự phân tích tam phân, như chúng ta đã thấy, vốn dựa một phần vào sự phân biệt giữa ngôn ngữ và phương tiện, một phần vào sự phân biệt giữa câu và các phát-ngôn-thành-phẩm.

Có thể cần nói thêm rằng, chiểu theo những lẫn lộn và nhầm lẫn tương đối phổ biến tồn tại ở khía cạnh này, sự phân biệt giữa câu và phát-ngôn-thành-phẩm không chỉ đơn giản là sự phân biệt giữa điển dạng và hiện dạng. Điều này xuất phát từ thực tế là hai phát-ngôn-thành-phẩm được tạo ra trong những ngữ cảnh khác nhau có thể được xem như là những hiện dạng của cùng một điển dạng mà không cần biết những câu nào đã được nói ra. Hơn thế nữa, như tôi đã nhấn mạnh trong mục này, các hiện dạng của cùng một phát-ngôn-thành-phẩm có thể là kết quả của việc nói ra các câu khác nhau và ngược lại, các hiện dạng của các phát-ngôn-thành-phẩm khác nhau có thể có được bằng cách phát ngôn cùng một câu trong những ngữ cảnh khác nhau. Đây là điểm cốt tử đối với bất kì lí thuyết về cấu trúc ngôn ngữ nào vận hành với khái niệm ít nhiều mang tính truyền thống về cái đơn vị gọi là câu. Bất kì ai, khi đã chấp nhận quan điểm truyền thống về câu (như chúng ta chấp nhận trong cuốn sách này) đều cũng muốn có quyền nói rằng, ví dụ, hiện dạng của:

Tôi đã,

bất luận được nói ra hay viết ra, là kết quả của việc thể hiện vô số các câu. Họ sẽ cho rằng (20) là dạng tỉnh lược của bất kì câu nào trong tập hợp các câu bao gồm:

Tôi đã rửa chén bát’

Tôi đã đến California’

Tôi đã có một cái máy tính cá nhân’

Ngược lại, họ cũng muốn cho (như tôi) rằng một câu như:

Tôi đã rửa chén bát’

có thể được nói ra không phải chỉ như là:

Tôi đã rửa chén bát,

mà còn như là:

Tôi đã làm xong

Tôi đã

Tôi

(với một vài đường nét ngôn điệu thích hợp, nếu những phát ngôn này được thể hiện bằng phương tiện âm thanh). Như chúng ta sẽ thấy ở chương 9, sự phân tích hành động tạo lời được phác hoạ trong mục này cho phép chúng ta đi đến những nhận định như vậy theo một cách thoả đáng cả về lí thuyết lẫn kinh nghiệm. Nhưng bây giờ, khi tôi đã giải thích khá chi tiết những gì có liên quan đến sự thực hiện một hành động tạo lời, chúng ta có thể bàn đến điều được mọi người thừa nhận như là đóng góp đặc sắc nhất của Austin trong việc nghiên cứu ý nghĩa: sự phát triển của ông về khái niệm lực ngôn trung.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét